- Hiến Máu toàn phần là hiến một túi máu có thể tích 250ml, 350ml hoặc 450ml. Thể tích máu lấy mỗi lần tùy thuộc tình trạng sức khỏe, cân nặng của người cho ngay thời điểm lấy máu, nhưng mỗi lần lấy máu toàn phần như vậy không được quá 9ml máu/kg .
Điều đó ko sai, nhưng cái tư tưởng ăn sâu vào máu của những người chưa có tiền nó vậy. Em nói chuyện với mấy ng đó. Ko câu nào là có ý nghĩa cả, ví dụ: em hỏi thẳng " mày có định hướng sau này làm gì chưa, cứ làm thuê mãi thế à)". Đa phần họ ko trả lời hoặc
Có nhiều nguyên nhân gây ung thư amidan như thói quen lạm dụng rượu bia, thuốc lá, môi trường khói bụi, độc hại, tình trạng nhiễm dai dẳng HPV(Human papilloma virus- virus gây u nhú ở người) đặc biệt với typ 16. Ung thư amidan phát triển theo 4 giai đoạn.
Đi đái ra máu nhiều lần trong ngày cảnh báo nhiều căn bệnh nam khoa nguy hiểm có thể dẫn đến nhiều biến chứng nặng nề. Thậm chí có thể gây vô sinh. Do đó nam giới không nên chủ quan. Theo chia sẻ của các bác sĩ nam khoa, hiện tượng đi đái ra máu là dấu hiệu đặc trưng của khá nhiều căn bệnh.
Viêm nhiễm không đặc hiệu vùng hàm mặt là viêm nhiễm gây ra bởi: Loại vi khuẩn nào sau đây làm pH giảm nhanh trong môi trường miệng: Xương hàm dưới nhỏ, xương hàm trên ít ảnh hưởng (chứng cằm hụt) thường thấy trong: Mòn cổ răng hay gặp ở vùng: Triệu chứng đầu tiên
Điều trị bằng thuốc. Điều trị bằng thuốc là phương pháp trị liệu đơn giản, ít tốn kém. Thuốc điều trị u nhú tiền đình bao gồm thuốc uống và thuốc bôi. Có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, ức chế u nhú phát triển. chữa trị bằng thuốc yêu cầu
X9osb. Theo Bệnh viện Da liễu Trung ương, u nang nhầy của môi là một thương tổn niêm mạc gây ra do sang chấn, hay gặp ở niêm mạc môi dưới. Ngoài ra, thương tổn có thể ở các vị trí khác như sàn miệng, lợi, niêm mạc má, hiện lâm sàng của u nang nhầy là nốt hình mái vòm, trong suốt, chứa đầy chất nhầy, đường kính 1-15 mm, chỉ có một thương tổn đơn độc hoặc nhiều thương thương tổn bề mặt có màu hơi xanh do các mao mạch phía dưới, trong khi đó, các thương tổn sâu có màu đồng nhất với niêm mạc môi. Thương tổn có thể bị chảy máu ở bên trong tạo ra màu đỏ tươi, thỉnh thoảng giống u mạch máu. Đôi khi bề mặt thương tổn trở nên trắng, thô ráp, bong vảy do các sang chấn lặp đi lặp nhân lưu ý cần phân biệt giữa u nang nhầy với các loại u sau đây u máu, u mạch bạch huyết, nang giáp lưỡi, u nhú, u tuyến hỗn hợp, các u ác tính của tuyến nước bọt hiếm.U nang nhầy thường tồn tại vài ngày hoặc vài tuần rồi vỡ thường là trong lúc nhai thức ăn, tự lành. Với các thương tổn tái đi tái lại sẽ tạo thành cục bướu ở mặt trong niêm mạc môi. Thương tổn không đau nhưng gây khó chịu, vướng víu do khối bất thường ở nhân gây u nang nhầy là do các sang chấn ở miệng làm tổn thương các ống bài tiết của tuyến nước bọt nằm trong niêm mạc của môi. Trong đó, răng cắn vào niêm mạc môi là hay gặp nhất. Tuy nhiên, người bệnh có thể không nhận thức được động tác này. Các chất nhầy từ ống tuyến nước bọt rò rỉ, chảy vào mô liên kết xung quanh, hình thành các u nang đoán u nang nhầy của môi chủ yếu dựa vào lâm sàng. Có thể làm mô bệnh học để loại trừ các bệnh khác. U nang nhầy có thể tự lành, không cần điều trị đặc hiệu. Với các thương tổn chắc, sâu, tái đi tái lại nhiều lần, có thể loại bỏ thương tổn bằng phẫu thuật, áp lạnh cryosurgery, laser xâm nhập. Thương tổn sẽ không tái phát nếu các tuyến mồ hôi nhỏ ở vùng tiếp nối được loại thường, việc tự tiêu của u nang nhầy cần có thời gian. Thỉnh thoảng, bạn nên kiểm tra u nang để đảm bảo rằng nó không bị nhiễm trùng và không bị to ra. Súc miệng bằng nước muối ấm có thể giúp đẩy nhanh quá trình chữa có thói quen cắn môi hoặc má, bạn nên bỏ những thói quen này. Thói quen có thể liên quan đến căng thẳng, lo lắng hoặc buồn chán. Theo dõi để xác định được tác nhân gây ra, bạn có thể tìm cách ngừng cắn môi và má. Nhai kẹo cao su không đường là phương pháp hữu ích để bỏ thói quen cắn môi mà không gây hại cho bản khi được xác định và chẩn đoán đúng, u nang nhầy có tỷ lệ hồi phục tốt. Đây là những u nang lành tính không phải ung thư, vì vậy chúng không gây ra bất kỳ mối lo ngại nào về sức khỏe lâu dài.
Máu là gì? Máu là một dịch lỏng màu đỏ chảy trong hệ thống tuần hoàn. Thể tích máu ở người trưởng thành là 5-6 lít ở nam giới và 4,5-5,5 lít ở nữ giới, chiếm trọng lượng 6-8% cơ thể. Máu gồm các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và một dịch có màu vàng chanh là huyết tương. Máu được sinh ra từ đâu? Nguồn gốc của các tế bào máu là các tế bào gốc sinh máu vạn năng có trong tủy xương, đó là những tế bào có khả năng sinh sản trong suốt cuộc đời. Một phần những tế bào được giữ lại trong tủy xương để duy trì nguồn cung cấp tế bào gốc, phần lớn hơn sẽ biệt hóa để tạo ra các dòng khác nhau của các tế bào máu gọi là các tế bào gốc biệt hóa. Các tế bào gốc sẽ biệt hóa qua nhiều giai đoạn để trở thành các tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trưởng thành. Cấu tạo các thành phần trong máu Hồng cầu Hồng cầu có hình đĩa lõm hai mặt, đường kính trung bình khoảng 7,5µm, chiều dày 1µm ở trung tâm và 2µm ở ngoại vi. Cấu trúc lõm này giúp hồng cầu di chuyển linh hoạt trong các mạch máu. Thành phần quan trọng nhất trong hồng cầu là Hemoglobin. Quá trình sản sinh hồng cầu chịu sự điều hòa của Erythropoietin, một hormone được sinh ra từ thận. Số lượng hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi là 5,05±0,38 T/l x1012 tế bào/ lít ở nam giới và 4,66±0,36 T/lx1012 tế bào/ lít ở nữ giới. Hồng cầu sống được bao lâu thì chết? Bạch cầu Là những tế bào có chức năng chống lại các tác nhân lạ như vi khuẩn, vi rút,... đi vào cơ thể nhằm bảo vệ cơ thể. Người ta phân loại bạch cầu thành bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt. Bạch cầu hạt lại được chia thành bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid, bạch cầu ưa base. Bạch cầu không hạt thì gồm 2 loại là bạch cầu mono và bạch cầu lympho. Số lượng bạch cầu trong cơ thể là bao nhiêu? Tiểu cầu Là những mảnh tế bào không có nhân, hình đĩa, đường kính khoảng 2-4µm, có màng bao bọc. Tiểu cầu là một cấu trúc rất hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi dao động từ 150-300 G/l, trong đó nam 263,0± 61 G/l, nữ 274,0± 63,0 G/l. Các thành phần của máu, lượng máu trong cơ thể người bình thường là bao nhiêu? Huyết tương Là phần dung dịch màu vàng, thành phần gồm nước, đạm, mỡ, đường, vitamin, muối khoáng, các men,... Chức năng của máu. Máu có nhiều chức năng quan trọng mang tính sống còn đối với cơ thể. Máu vận chuyển các phân tử các phân tử glucose, acid amin, acid béo, các chất điện giải và nước được hấp thu từ ống tiêu hóa sẽ được máu vận chuyển cung cấp cho các mô khác. Máu lấy oxy từ phổi mang đến các mô, đồng thời lấy carbon monocid, sản phẩm của hô hấp tế bào đưa đến phổi để thải ra ngoài. Máu vận chuyển hormone và các chất dẫn truyền từ nên sản xuất đến cơ quan đích. Máu vận chuyển nhiệt quá trình chuyển hóa trong cơ thể sản xuất ra một lượng nhiệt lớn, máu vận chuyển nhiệt từ các bộ phận sâu trong cơ thể đến da và đường hô hấp để khách tán nhiệt ra ngoài. Máu giúp duy trì sự ổn định của pH và áp lực thẩm thấu của dịch ngoại bào dịch ngoại bào trong cơ thể luôn được duy trì ổn địch trong khoảng từ đến 7,45 nhờ trong máu có các hệ thống đệm. Các hệ thống đệm này chuyển các acid, base mạnh thành các acid, base yếu hơn. Máu cũng vận chuyển các chất có tính acid và base mạnh đến các cơ quan bài tiết. Các protein của huyết tương do không qua được thành mao mạch, tạo ra một áp suất thẩm thấu gọi là áp suất keo. Áp suất keo ảnh hưởng lớn đến áp lực thẩm thấu của dịch ngoại bào do đóng vai trò quan trọng trong sự vận động của nước giữa máu và dịch kẽ. Máu có chức năng bảo vệ cơ thể do một số tế bào máu có khả năng thực bào, giúp tiêu hóa và khử độc các chất lạ, chất lạ và vi khuẩn. Một số tế bào máu có khả năng sinh kháng thể để trung hòa chất độc từ tác nhân lạ, trong khi một số tế bào khác và protein huyết tương có vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu giúp bảo vệ cơ thể. Có bao nhiêu nhóm máu? Hai hệ thống nhóm máu phổ biến và quan trọng nhất là hệ thống nhóm máu ABO và hệ thống nhóm máu Rh. Hệ thống nhóm máu ABO Được tìm ra lần đầu tiên vào năm 1901 bởi Karl Landsteiner, ông phát hiện ra sự có mặt của các kháng nguyên A và B trên màng hồng cầu và các kháng thể tương ứng anti A và anti B trong huyết tương. Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của kháng nguyên A và B người ta phân ra 4 nhóm máu chính Nhóm O không có kháng nguyên A và B trên hồng cầu Nhóm B có kháng nguyên B trên hồng cầu Nhóm AB có cả kháng nguyên A và kháng nguyên B trên hồng cầu. Ở người Việt Nam, nhóm máu O chiếm ưu thể với khoảng 45% dân số, tiếp theo là nhóm máu B chiếm 28,3%, nhóm máu A chiếm 21,2% và nhóm máu AB chiếm 5,5%. Hệ thống nhóm máu Rh Được tìm ra vào năm 1940 bởi Lansteiner và các cộng sự. Hầu hết các kháng nguyên Rh được ký hiệu bằng các chữ C,D,E,c,d,e là kháng nguyên yếu, trừ kháng nguyên D. Người có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là người có Rh dương tính Rh+, người không có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là Rh âm tính Rh-. Kháng thể anti D bình thường không có trong huyết tương của cả người Rh+ và Rh-. Khi truyền máu Rh+ cho người Rh- thì người Rh- sẽ sản xuất ra kháng thể anti D, sự tạo thành kháng thể này xảy ra chậm và thường chỉ đạt nồng độ tối đa sau 2-4 tháng. Nếu những người Rh- này lần sau lại tiếp tục nhận máu Rh+ thì các kháng thể anti D có sẵn trong cơ thể họ sẽ làm ngưng kết hồng cầu, xảy ra hiện tượng truyền máu. Đây là một hiện tượng rất nguy hiểm, nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh. Ở người Việt Nam, tỉ lệ Rh+ là 99,92% do đó những tai biến do không hòa hợp của nhóm máu Rh là rất hiếm gặp. Các vấn đề thường gặp Một số rối loạn lâm sàng về máu có thể kể đến như bệnh thiếu máu, bệnh đa hồng cầu, bệnh Leukemia, bệnh giảm bạch cầu, Hemophilia, bệnh giảm tiểu cầu, hội chứng thiếu yếu tố đông máu do thiếu hụt vitamin K, chứng huyết khối, chứng đông máu rải rác trong huyết quản,… Bệnh thiếu máu là một bệnh gặp khá phổ biến. Thiếu máu được định nghĩa là sự giảm khả năng vận chuyển oxy máu do giảm số lượng hồng cầu hoặc giảm số lượng Hemoglobin trong hồng cầu hoặc giảm cả hai. Do khả năng vận chuyển oxy của máu giảm, người bệnh dễ bị mệt mỏi, thở nhanh, khó tập trung vào công việc, đặc biệt là công việc trí óc. Những nguyên nhân thiếu máu là do thiếu sắt, mất máu cấp do các bệnh như trĩ, rong kinh, chảy máu đường tiêu hóa,…, do suy tủy, do hội chứng nguyên hồng cầu khổng lồ thiếu máu ác tính,… Trong chế độ ăn hàng ngày, cần bổ sung các thức ăn giàu sắt, acid amin, vitamin B12, acid folic để hạn chế nguy cơ xảy ra thiếu máu. Xem thêm Cách phân loại nhóm máu Khi nào cần xác định nhóm máu? Làm thế nào để biết nhóm máu của mình?
U máu là bệnh lý thường gặp ở trẻ em. Mặc dù đây không phải là một bệnh ác tính, bệnh sẽ tự khỏi khi trẻ lớn, các di chứng của bệnh liên quan chủ yếu đến vấn đề thẩm mỹ… Hiện nay, đối với phần lớn các thầy thuốc thì vấn đề chuẩn đoán và điều trị u máu thực sự còn lúng túng. Sự chuẩn đoán nhầm lẫn giữa các bệnh u máu và các dị dạng mạch máu bẩm sinh ở trẻ em làm tăng tỉ lệ di chứng cho điều trị. Các hiểu biết mới về chuẩn đoán và điều trị bệnh u máu giúp các thầy thuốc tránh được những biến chứng do bệnh hay do điều trị gây ra. U máu trẻ em là một bệnh thường gặp, chiếm tỉ lệ khoảng 10% ở trẻ sơ sinh. Bệnh được hình thành ngay sau khi đứa trẻ ra đời, đó là kết quả của quá trình tăng sinh tạm thời của các tế bào nội mạch. U máu được phát ngay trong giai đoạn sơ sinh và luôn diễn ra ba giai đoạn phát triển, ổn định và thoái triển. Do đặc điểm lâm sàng không rõ ràng của bệnh u máu, nên việc chuẩn đoán phân biệt với các dạng bệnh lý của mạch máu khác rất khó khăn, chính vì vậy điều trị u máu cho đến nay vẫn là một vấn đề thách thức đối với nhiều bác sĩ của nhiều chuyên khoa khác nhau. Những hiểu biết cơ bản về bệnh sinh, chuẩn đoán xác định, chuẩn đoán phân biệt, tiến triển của bệnh giúp cho các bác sĩ có được hướng điều trị đúng đắn bệnh u máu, một dạng bệnh thường gặp ở trẻ em. 1. Phân loại bệnh lý mạch máu Trong một thời gian dài trước đây, các bác sĩ thường gộp chung các bệnh lý mạch máu khác nhau dưới một tên chung là u máu hay bướu máu. Sự đơn giản hóa này đã dẫn đến nhiều sai lầm trong chẩn đoán và khó khăn trong điều trị. Một loạt những di chứng do chẩn đoán sai cũng như do điều kiện chính trị không đúng hướng cũng bắt đầu từ sự không thống nhất về thuật ngữ và sự hiểu biết về bệnh nguyên của các bệnh lý mạch máu. Những nghiên cứu hiện đại gần đây về bệnh lý mạch máu đã đưa những khái niệm và thuật ngữ rõ ràng hơn cho các bệnh lý mạch máu. Theo Hiệp hội quốc tế nghiên cứu về bệnh lý mạch máu ISVA 1986, nhóm các bệnh lý mạch máu, bao gồm các di dạng dạng mạch máu có tính chất bẩm sinh và u máu, một dạng bệnh lý tăng sinh tế bào nội mạch và chỉ xuất hiện sau khi sinh. Do bệnh nguyên của hai nhóm bệnh lý này khác nhau, nên việc điều trị cho từng nhóm bệnh cơ bản là khác nhau. Các bệnh dị dạng mạch máu là nhóm bệnh có sự phát triển bất thường của tất cả các loại mạch máu mao mạch, động mạch, tĩnh mạch, bạch huyết trong thời kỳ bào thai. Các bệnh lý này có thể phát hiện ngay khi đứa trẻ sinh và phát triển tương ứng cùng với đứa trẻ đó. Các dạng bệnh lý được gọi tên theo thanh phần mạch bị tổn thương chính, như dị dạng mao mạch, dị dạng động mạch, dị dạng tĩnh mạch… Cũng tồn tại các thể dị dạng phối hợp nhiều thành phần như dị dạng động – tĩnh mạch, dị dạng mao – động mạch… Đây chính là những thể khó khăn trong việc chuẩn đoán và điều trị. U máu là nhóm bệnh lý mạch máu được đặc trưng bởi sự tăng sinh quá mức của tế bào nội mạch. U máu trẻ em là một dạng u máu thường gặp nhất trong nhóm bệnh lý này, thường phát hiện sau khi sinh và phát triển qua ba giai đoạn đặc trưng giai đoạn tiến triển từ khi sinh đến 8 – 12 tháng, giai đoạn ổn định trong 1 -1,5 năm, giai đoạn thoái triển đến khi đứa trẻ 8 -10 tuổi. Ngoài ra các dạng u máu như u máu bẩm sinh, u máu nội mạch… 2. Bệnh u máu trẻ em U máu là bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh, với tỉ lệ từ 10 – 12%. Bệnh u máu có đặc điểm là chỉ xuất hiện vào tuần lễ thứ nhất hay thứ tư sau khi sinh. Bệnh u máu gặp ở trẻ gái nhiều gấp đôi so với trẻ trai. Tỉ lệ bệnh ở trẻ da trắng cao gấp 3 lần so với trẻ da màu và bệnh không có tính di truyền. Bệnh u máu ở trẻ em được thể hiện dưới ba dạng lâm sàng u máu trong da, dưới da và hỗn hợp. U máu trong da thể hiện dưới dạng một đám màu đỏ tươi nổi hờ trên da bình thường, ranh giới u không rõ ràng. U máu dưới da ngược lại chỉ là một vùng nổi gờ có màu sắc đỏ nhạt, nằm phía dưới của vùng da bình thường hay da xanh nhợt. U máu thể hỗn hợp, trong da và dưới da, là loại u hay gặp nhất và chiếm tỉ lệ 75% các loại u máu. U được biểu hiện bởi một vùng đỏ nổi gờ trên một vùng da lành, sau đó vùng dưới da dần phát triển rộng xung quanh vùng u máu trong da. Thể u máu hỗn hợp thường chỉ xuất hiện ở một vài vùng tổn thương, vị trí hay gặp là ở vùng đầu, mặt , cổ. U máu ở trẻ em Ảnh minh họa Tiến triển của bệnh u máu bao giờ cũng trải qua 3 giai đoạn và chắc chắn sẽ tự khỏi khi đứa trẻ lớn. U máu thường xuất hiện vào tuần đầu tiên sau khi đứa trẻ ra đời, hình thái lâm sàng rất hay thay đổi, có thể là một đám giãn mạch mầu xanh xám, có khi là sẩn đỏ hay dát màu xanh. Tổn thương ban đầu có thể dễ lẫn với các u sắc tố và thường được bỏ qua trong tuần lễ đầu tiên. Nhưng sau đó u máu diễn biến nhanh chóng và biểu hiện rõ nét trên lâm sàng. Giai đoạn tiến triển của u máu kéo dài từ 6 – 8 tháng tùy theo thể lâm sàng. Với thể u máu trong da, thời gian phát triển có thể kéo dài từ 3 – 6 tháng, riêng thể u máu dưới da, thời gian này dài hơn, từ 8 – 10 tháng. Trong giai đoạn này, u máu tăng cả về thể tích và diện tích của khối u. Khối u trở nên đỏ và to dần theo thời gian, ảnh hưởng nhiều đến vấn đề thẩm mỹ. Nếu khối u nằm ở các vị trí như mi mắt, môi, mũi thì ngoài vấn đề thẩm mỹ còn có những rối loạn về chức năng của đứa trẻ. Nếu không điều trị đúng, các rối loạn do khối u gây ra có thể dẫn tới những rối loạn về chức năng khó phục hồi về sau này. Từ tháng 8 trở đi, u máu sẽ không thay đổi về thể tích và màu sắc, khối u sẽ ổn định như vậy cho tới tháng 18 – 20. Đây là giai đoạn ổn định của u máu, giai đoạn này hầu như không ảnh hưởng dưới tác dụng của điều trị nội khoa. Sang giai đoạn thoái triển, khối u nhỏ dần, màu sắc trở nên nhạt màu. Kích thước của khối u máu càng nhỏ khi trẻ lớn, đến 6 – 8 tuổi, ảnh hưởng duy nhất của u máu chỉ là vấn đề thẩm mỹ và không có những rối loạn chức năng đáng kể nào. 3. Biến chứng của bệnh u máu trẻ em Trong quá trình phát triển của u máu từ những tuần đầu tiên của trẻ sơ sinh cho đến lúc 8 – 10 tuổi, các biến chứng có thể xảy ra gồm hai loại chính, biến chứng do chính u máu gây ra và biến chứng liên quan đến việc điều trị. Biến chứng do sự phát triển của u máu loét và hoại tử vùng trung tâm khối u, bội nhiễm thứ phát sau khi có hoại tử khối u những biến chứng hay gặp trong quá trình phát triển của khối u. Chảy máu cũng là một biến chứng không hiếm gặp khi khối u phát triển nhanh về thể tích. Các biến chứng toàn thân như suy tim hay tắc mạch hiếm khi xảy ra với các thể u máu trong da. Các u máu nằm ở một số vùng như mi mắt, mũi, tai, miệng, hậu môn, … sẽ gây ra những rối loạn nặng nề về chức năng cho đứa trẻ. U máu ở mi mắt có thể dẫn đến nhược thị, lác hay rối loạn thị giác của đứa trẻ ngay từ những tuần đầu tiên. Các biến chứng liên quan tới chức năng chỉ có thể giải quyết bằng điều trị phẫu thuật. Biến chứng do điều trị hoại tử vùng da trung tâm của u máu do các phương pháp điều trị như xạ trị, áp lạnh hay tiêm xơ. Loét bề mặt u máu hay bội nhiễm toàn bộ khối u thường xảy ra sau khi có tình trạng hoại tử khối u máu. Một trong những biến chứng thường gặp sau khi điều trị bằng xạ trị là tình trạng viêm hoại tử tái phát ở vùng chiếu xạ. Những rối loạn về sự phát triển của các vùng mô phía dưới u máu được chiếu xạ không hiếm gặp hiện nay như thiểu dưỡng da và tổ chức dưới da, thiểu dưỡng xương hàm, lép nửa mặt, thoái hóa khớp gối, ngắn chi, lệch vẹo cột sống,… 4. Điều trị u máu Nguyên tắc điều trị u máu ở trẻ em là cần chẩn đoán chính xác bệnh u máu, đồng thời cần phân biệt với các thể bệnh lý u máu khác như dị dạng mạch máu để việc điều trị không bị lẫn lộn và không kết quả. Các phương pháp điều trị kinh điển như xạ trị, tiêm xơ, áp lạnh, … hầu như không có kết quả trong giai đoạn u đang phát triển, càng không có ý nghĩa trong các giai đoạn phát triển ổn định và thoái triển của khối u. Ngoài ra các phương pháp này còn để lại những di chứng nặng nề không những về mặt thẩm mỹ, mà còn để lại nhiều rối loạn chức năng nghiêm trọng. Khi đã chuẩn đoán là u máu trẻ em, điều trị duy nhất được coi là thích hợp là điều trị nội khoa. Liệu pháp corticoid được coi là có hiệu quả với tất cả các thể u máu trẻ em. Trong trường hợp khối u ít đáp ứng với corticoid đường uống, có thể dùng kết hợp tiêm corticoid trực tiếp vào khối u hay dùng crème có chứa corticoid bôi ngoài da. Nếu khối u nằm ở những vùng có rối loạn về chức năng như mi mắt, mũi, … cần đặt vấn đề phẫu thuật sau khi đã điều trị nội khoa. Phẫu thuật tạo hình nhằm mục đích cắt bỏ khối u và phục hồi lại chức năng giải phẫu của các cơ quan bị tổn thương. Cần nhớ rằng u máu trẻ em có thể tự khỏi khi trẻ lớn, những ảnh hưởng duy nhất của u máu sẽ chỉ liên quan tới vấn đề thẩm mỹ. Chính vì vậy có thể tiến hành phẫu thuật tạo hình để giải quyết các di chứng về thẩm mỹ khi đứa trẻ đã lớn. Bệnh u máu trẻ em cho đến nay vẫn hay bị chẩn đoán nhầm với các dạng bệnh lý mạch máu khác như dị dạng mạch máu, chính vì vậy việc điều trị thường gặp nhiều khó khăn và di chứng do điều trị không đúng thường để lại những hậu quả nặng nề cả về thẩm mỹ và chức năng. Hai điểm cần lưu ý trong khi điều trị u máu ở trẻ em là bản thân u máu đáp ứng tốt với liệu pháp corticid vầ có thể tự khỏi khi trẻ lớn, không được điều trị u máu bằng các phương pháp xạ trị hay tiêm xơ. Đây là những sai lầm thường gặp trong quá trình điều trị u máu trẻ em ở phần lớn các bác sĩ. Thiết Sơn – Bộ môn phẫu thuật tạo hình, Đại học Y Hà Nội TTVN số 9 Lượt xem
Hầu hết các u máu thường dễ dàng nhìn thấy ngay khi trẻ vừa sinh ra, nhưng cũng có thể sau nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó. U máu có thể gặp thấy ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể, nhưng thường gặp nhất là trên mặt, trên da, đầu, ngực hoặc lưng. U máu nhỏ với đường kính < 10cm thường gặp nhất là các u máu ở ngoài da và trên đối tượng là bệnh nhi, bẩm sinh ở trẻ. 1. U máu tiến triển qua những giai đoạn nào? U máu tiến triển qua 3 giai đoạn gồmGiai đoạn u máu tăng sinh Diễn ra trong khoảng từ 3 tháng đến 6 tháng trong trường hợp u máu nông và khoảng từ 8 tới 10 tháng đối với u máu sâu. Đây là giai đoạn u máu tăng kích thước khá nhanh, có thể tăng gấp đôi hoặc gấp 3. Giai đoạn này cần được theo dõi chặt chẽ bởi có thể gây ra một số biến chứng, thậm chí có thể đe dọa tính mạng và ảnh hưởng tới thẩm mỹ của đoạn ổn định Có thể từ 18 đến 20 tháng, kích thước u máu trở nên ổn định hơn trong giai đoạn đoạn u máu thoái triển U máu trở nên nhạt dần và xẹp dần dưới da. Giai đoạn này thường ghi nhận khi bệnh nhi khoảng 6 tuổi. Tăng sinh mạch máu 2. Điều trị u máu nhỏ ở trẻ như thế nào? U máu của trẻ sơ sinh thường không cần điều trị, phần lớn sẽ tự thoái triển. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì u máu sẽ có chỉ định điều trị bao gồm trường hợp u máu làm cản trở tới các chức năng của cơ thể che mất tầm nhìn, gây khó khăn trong việc thở, loét, chảy máu hoặc nhiễm trùng. Ngoài ra trong trường hợp u máu có khả năng ảnh hưởng tới thẩm mỹ, gây giãn ra hoặc để lại sẹo thì cần phẫu thuật. Đối với điều trị u máu thì phương pháp phẫu thuật đối với những u máu chưa có xâm lấn vẫn là phương pháp hiệu quả nhất. Phẫu thuật nhằm mục đích loại bỏ u máu trong khi hạn chế tối đa nhất tổn thương các khu vực giải phẫu lân cận. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác như dùng laser, tiêm thuật u máu đối với trẻ dưới 1 tuổi là một vấn đề còn ít được nghiên cứu và công bố rộng rãi. Phẫu thuật này có thể được đánh giá là nguy hiểm do sự tồn tại của các mạch máu tự nhiên ở nơi tổn thương. Tuy nhiên ngược lại thì việc phẫu thuật ở những trẻ lớn hơn gây ra nhiều vấn đề hơn do có sự liên kết nhiều hơn giữa các mô liên kết và mạch máu. Do rất khó để phân biệt giữa u máu và tế bào thường nên trong khi phẫu thuật sẽ phải khoét bỏ phần tế bào nhiều hơn. Sẹo là một vấn đề thường gặp sau phẫu thuật u máu. Phẫu thuật sớm khi u máu còn nhỏ sẽ để lại vết sẹo nhỏ hơn. Sự chậm trễ trong phẫu thuật u máu làm tăng nguy cơ để lại vết sẹo to hơn và mất nhiều máu hơn trong quá trình phẫu quá trình tiến hành phẫu thuật thì bệnh nhân sẽ được gây mê và được phẫu thuật viên tiến hành thực hiện các thủ thuật phẫu thuật cắt bỏ khối u. U máu nhỏ ở trẻ 4. Chăm sóc sau khi phẫu thuật Sau phẫu thuật u máu, bệnh nhân cần được theo dõi các chỉ số về hồng cầu và hematocrit, đề phòng biến chứng chảy máu sau mổ. Kháng sinh có thể được chỉ định để phòng ngừa nhiễm khuẩn tĩnh mạch. Dựa trên các thông số xét nghiệm, máu hoặc các dung dịch thay thế máu có thể được sử dụng. Sau phẫu thuật, cần cho bệnh nhân vận động sớm ngay ngày đầu sau khi phẫu thuật là một trong những phương pháp giải quyết triệt để đối với các u máu có đường kính nhỏ. Đối với những trẻ có thành viên trong gia đình hoặc họ hàng đã từng trải qua phẫu thuật cắt bỏ u máu thì đây là một lựa chọn nên được cân nhắc. Ngoài ra bác sĩ cần tư vấn cho người nhà bệnh nhân về khả năng thất bại hoặc những biến chứng có thể gặp sau phẫu thuật. Hiện tại với sự dễ dàng trong việc tìm kiếm thông tin qua truy cập internet, việc trực tiếp trao đổi ý kiến với bác sĩ về cách điều trị u máu cho trẻ là cần thiết để người nhà bệnh nhân có những lựa chọn phù hợp về các phương pháp điều trị. Video đề xuất Tầm soát thai nhi - Bé khỏe chào đời XEM THÊM Phẫu thuật cắt u máu kích thước lớn và những điều cần biết Tìm hiểu về ung thư biểu mô tế bào gan Nhu mô gan HPT 8 nốt tăng âm dạng u máu có nguy hiểm không?
U máu dưới da là tình trạng bẩm sinh hoặc mắc phải xuất hiện tại nhiều vị trí trên cơ thể, chủ yếu tập trung ở vùng đầu mặt cổ. Hiện nay các dạng u máu dưới da thường gặp được phân loại theo đặc điểm hình thái và bản chất giải phẫu của khối u. Hãy cùng Docosan tìm hiểu về tình trạng này trong bài viết sau đây nhé! Tóm tắt nội dung1 U máu dưới da là bệnh gì?2 Phân loại các dạng u máu dưới da thường Theo giải phẫu U máu dưới da dạng mao U máu dưới da dạng Theo đặc điểm lâm U máu nông dưới U máu sâu dưới U máu dưới da phẳng U máu dưới da gồ u máu củ Phình mạch dạng U máu trong xương Một số thể u máu đặc biệt khác U máu dưới da hay u mạch máu là một khối u tế bào lành tính thường gặp ở trẻ em, hình thành do sự tăng sinh của các mạch máu gồm động mạch, tĩnh mạch và mao mạch. Tỷ lệ gặp u máu dưới da lần lượt là gần 60% xuất hiện khi ở trẻ sơ sinh, 40% trong tháng đầu và 30% ở trẻ đẻ non có cân nặng sau sinh dưới 1,8kg. Theo thống kê, có 60% u máu xuất hiện ở vùng đầu, mặt và cổ và một phần nhỏ có u máu dị dạng xuất hiện trong nội tạng. Phân loại các dạng u máu dưới da thường gặp Theo giải phẫu học U máu dưới da dạng mao mạch Đây dạng u máu dưới hay gặp nhất, chiếm khoảng 60% các trường hợp. Ở bệnh nhân này, các mao mạch tăng sinh và giãn da nhưng không có sự tăng sinh của các tế bào nội mô và cơ trơn. U máu mao mạch chứa các mao mạch ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, gồm có mao mạch rỗng, cũng có mao mạch đầy, rộng và không đồng đều như các mao mạch bình thường. U máu dưới da dạng hang Dạng u máu này chiếm khoảng 30% các trường hợp mắc bệnh. U máu hang có tổ chức giống như những mô liên kết của cơ quan, gồm những hốc hang nhỏ, đầy máu, thông với nhau và thường có vỏ xơ bọc xung quanh, có thể gây chèn ép lên các tổ chức ở phía dưới. Đôi khi những hốc máu trong u máu hang được ngăn cách nhau bởi các vách collagen có nhiều mô liên kết sợi và các chất chun co giãn. Trong u máu hang, thì các mao mạch giãn rất rộng và chức nhiều máu. U máu dạng hang gặp ở khoảng 30% các bệnh nhân Theo đặc điểm lâm sàng U máu nông dưới da Loại u máu dưới da ở phần sát mô biểu bì, có hình thái là u chứa những mao mạch giãn rộng, tăng sinh, ứ máu đi kèm với tổ chức dạng hang. U máu nông dưới da xuất hiện và tiến triển chậm, thường chỉ được phát hiện khi đã có kích thước lớn gây khó chịu. Loại u máu này có thể đạt tới kích thước lớn như quả chanh, xuất hiện đơn lẻ hoặc thành chụm có 3 – 4 u rải rác ở mặt, vùng cổ. Phần da phía trên u máu nông có thể có màu bình thường hoặc tím nhạt, có tĩnh mạch nông chạy phía trên, u phình to ra khi gắng sức hoặc khi cúi xuống. U máu sâu dưới da Là loại u máu dưới da sâu ở phần mềm, dưới luôn lớp mỡ, có thể tăng sinh đến thâm nhiễm cơ và các cơ quan nằm sâu như tuyến nước bọt, dây thần kinh. Biểu hiện u máu sâu khá giống với u máu nông dưới da nhưng da phía trên thường bị thâm nhiễm nhiều hơn, có tĩnh mạch chạy ở trên khối u, vùng xung quanh da hơi nhăn, màu hồng hoặc tím. U ít khi gồ lên khỏi da, chủ yếu lan sâ, nhưng cũng sưng to hơn khi cúi đầu hoặc lao động nặng, và bóp xẹp. U máu dưới da phẳng U mạch máu phẳng là một nhóm bệnh bẩm sinh đi kèm với tổn thương dị dạng ở các mao mạch tại mô da. Trong đó, lòng mạch bị giãn ra và không có sự tăng sinh bất thường của các tế bào nội mô mao mạch. Biểu hiện của u máu phẳng là xuất hiện những vết sẫm màu đỏ lấm tấm trên da, có nền hồng nhạt, đỏ nhạt hoặc đỏ thẫm, không gồ lên hơn bề mặt da, co giãn da xung quanh vẫn mềm mại. Nên người bệnh chỉ thấy da khác màu và có tính chất giống như da thường. U máu dạng phẳng thường đi kèm với bất thường dị dạng mạch máu U máu dưới da gồ u máu củ U máu gồ có thể do u máu phẳng tiến triển thành dạng ác tính và lan rộng. U gồ khỏi da từ vài mm đến 1cm hoặc hơn, có màu hồng đậm như máu, đỏ tía, da phủ lên hơi nhăn, khi va chạm dễ chảy máu dẫn tới nhiễm khuẩn và mất máu nhiều. Đôi khi u máu gồ hình thành một đám rộng ở cả vùng da lớn ở mặt hoặc dọc cổ. Loại u máu này có thể phát triển và hóa thành ung thư theo tuổi hoặc tự ngừng phát triển, thu nhỏ và teo hết hẳn. Phình mạch dạng rối Dạng u máu dưới da này được hình thành từ u máu gồ tự phát hoặc dưới ảnh hưởng của sự thay đổi nội tiết tố do mang thai, dùng thuốc tránh thai. Đôi khi, phình mạch rối là một thể trung gian giữa u máu và tình trạng giãn phình động – tĩnh mạch. Phình mạch rối gồm những mao mạch giãn rộng, kích thước không đồng đều, gồ to, có nhịp mạch đập và không bóp xẹp được. U máu trong xương hàm Là loại u máu dưới da nguy hiểm nhất, có thể dẫn đến mất lượng nhiều mà tử vong. Thường u máu trong xương hàm là u niêm mạc miệng hoặc u máu nướu xâm lấn ác tính gây phá hủy dần xương hàm và vỡ mạch máu gây chảy ồ ạt. Hiếm gặp hơn, u máu có thể phát triển từ trung tâm xương hàm, phá hủy dần lợi và răng, và gây chảy máu ra bên ngoài có thể cầm máu ngay lập tức. U máu trong xương hàm có thể gây mất máu nhiều đến tử vong Một số thể u máu đặc biệt khác U máu kết hợp Trong các thể bệnh trên, có nhiều loại u máu có thể cùng phát triển và kết hợp với nhau như u máu phẳng xen kẽ u máu gồ, u máu nông dưới da xen kẽ với u máu sâu dưới da,…U máu rải rác Hội chứng Rendu và Osler Có tính chất di truyền theo gia đình, đặc trưng bởi những u máu dưới da rải rác và có trong niêm mạc, màu sẫm, có chấm đen, da xanh xao, chảy máu và giãn mạch. Loại u máu này khu trú ở hai lá phổi có thể gây rò động – tĩnh mạch. Thường gặp là u máu hay khu trú ở má, cổ, niêm mạc miệng, môi, lưỡi, sàn miệng, hàm ếch, niêm mạc mũi,… dễ gây chảy máu khó cầm. U máu dưới da có thể thoái triển hoặc phát triển mạnh trong cuộc sống của người bệnh, và gây nhiều biến chứng khó lường. Vì vậy, khi phát hiện có u máu dưới da, bạn nên kịp thời đến sớm để khám và làm xét nghiệm tại các bệnh viện lớn uy tín để được chẩn đoán chính xác, theo dõi và có liệu pháp điều trị hiệu quả nhất. Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, bạn đọc vui lòng liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc CHAT để được hướng dẫn đặt hẹn. Nguồn tham khảo
u máu ở môi dưới