Thuốc Lioresal 10 với thành phần hoạt chất là Baclofen được chỉ định trong điều trị co thắt cơ LH 0923 283 003 để được tư vấn 24/7. E. Dấu chứng nào sau đây không thuộc tai biến mạch máu não nhánh sâu động mạch não giữa: A. Liệt tỷ lệ giữa chân và tay mặt. B. Không bán manh. C. Không có rối loạn cảm giác nữa người bên liệt. D. Mất ngôn ngữ lời nói. E. Thất ngôn kiểu Wernicke. E. Yếu tố nào sau đây CPP = huyết áp động mạch trung. bình – ICP. Phenylephrine không gây co thắt. mạch não, dùng thay cho. dopamine or norepinephrine, dobutamine: đảm bảo đủ. oxy hóa: bổ sung oxy nếu cần: cung cấp oxy hóa tối đa: để giảm nguy cơ. di chứng thần kinh: Nimodipine 60 mg. PO. q4h trong. 21 d: ưu tiên Cao khô lá bạch quả có tác dụng điều hòa vận mạch trên toàn bộ mạch máu. Hoạt chất này có trong sản phẩm Ginkgo Biloba 80mg VCP giúp hỗ trợ điều trị tăng cường tuần hoàn não hiệu quả. Sự co thắt mạch máu khi thành mạch bị tổn thương có tác dụng gì trong các tác dụng sau đây: A. Tăng giải phóng các yếu tố gây đông máu. B. Giảm bớt lượng máu bị mất. C. Tăng sự kết dính tiểu cầu. D. Hoạt hóa các yếu tố gây đông máu. Hãy suy nghĩ và trả lời câu Đau đầu vận mạch là chứng đau đầu do co thắt của các mạch máu vùng đầu và trong sọ não. Thường gặp nhất là co thắt động mạch thái dương. Tình trạng co thắt của động mạch sẽ làm cho một số vùng của não và các cơ vùng đầu cổ bị thiếu máu tạm thời và gây ra cHpx4FK. Bài viết được tham vấn chuyên môn bởi Tiến sĩ, Bác sĩ Trần Như Tú - Trưởng Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Chụp cắt lớp vi tính CT scanner có thể giúp phát hiện bất thường thần kinh, sọ não, hô hấp, tiêu hóa, phát hiện sớm các bệnh ung thư, chẩn đoán sớm các trường hợp đột quỵ... Đặc biệt chụp CT mạch máu não Computed Tomographic Angiography- CTA đang là phương pháp hiện đại được áp dụng tại nhiều nước phát triển trên thế giới giúp phát hiện sớm các bệnh lý liên quan đến bất thường mạch máu não. 1. Chụp CT mạch máu não là gì? Chụp CT mạch máu não Computed Tomographic Angiography- CTA là kỹ thuật hình ảnh tiên tiến không xâm lấn nhằm khảo sát mạch máu trong não. Bác sĩ sử dụng thuốc cản quang tiêm vào tĩnh mạch để hiển thị mạch máu. Một máy quét được sử dụng để chụp lại hình ảnh của các mạch máu, sau đó tái tạo lại hình ảnh 3 chiều bằng phần mềm trên máy có hình ảnh 3 chiều này mà bác sĩ chẩn đoán được chính xác cấu trúc của mạch máu trong một số bệnh như phình động mạch, hẹp mạch trong sọ hoặc ngoài sọ, nguy cơ đột quỵ... Mô phỏng chụp CT tưới máu não 2. Đối tượng chỉ định và chống chỉ định chụp CT Chỉ địnhHiện nay chụp CT mạch máu não được chỉ định với các trường hợpNhững người bị đau đầu thường xuyên nhằm đánh giá được khả năng tuần hoàn của mạch máu não, từ đó có thể chẩn đoán sớm được các bất thường trong mạch máu não. Chụp CT sọ kèm theo còn cho phếp các bệnh lý như u não, tai biến mạch máu não, thoái hóa não, các dị tật bẩm sinh về não...Chụp CT để chẩn đoán bất thường mạch máu não là phương pháp rất hữu ích để tầm soát ở người không có triệu chứng hoặc ở những người có nguy cơ bị các bệnh phình động mạch não, hẹp/tắc động mạch não. Bằng cách này sẽ giúp người bệnh chủ động ngăn ngừa được nguy cơ đột máu não giai đoạn tối cấp tính CTA mạch máu não phối hợp với chụp tưới máu não perfusion cho phép chẩn đoán rất sớm nhồi máu não tối cấp, phát hiện mạch máu bị tắc, hẹp để can thiệp kịp thời cho bệnh não Khảo sát tưới máu khối u và các mạch máu nuôi chỉ địnhBệnh nhân suy thận, suy gan nặngBệnh nhân có tiền sử dị ứng cần được điều trị chống dị ứng trướcBệnh nhân đang mang thai cần được che chắn bảo vệ thai nhiNhững điều cần lưu ý khi chụp CT mạch máu nãoNhững người có tiền sử những bệnh bệnh tim mạch, bệnh lý tuyến giáp, hen suyễn có nguy cơ gặp tác dụng phụ hiếm gặp của kỹ thuật nữ đang mang thai cần có chỉ định từ bác sĩ trước khi tiến hành kỹ khi chụp CT với thuốc cản quang, bệnh nhân cần nhịn ăn hoặc uống trong vài giờ. Đối tượng chỉ định và chống chỉ định chụp CT là những ai? 3. Ưu - nhược điểm của chụp CT mạch máu não Ưu điểmLà một phương pháp không xâm lấnCho hình ảnh rõ nét, độ phân giải hình ảnh gian chụp nhanh chóng, rất phù hợp trong các trường hợp khẩn cấp như đột giá kịp thời và nhanh chóng về lưu lượng máu 4 tuần sau điều trị.Đánh giá được sớm hơn hiệu quả điều trị bệnh, từ đó có phương án kịp thời cho việc điều trị tiếp theo nếu cần.Nhược điểmChụp CT hạn chế hơn MRI trong các tổn thương nhu mô ứng với thuốc cản quangBệnh nhân chịu bức phương tiện là máy CT scanner 640 slice, Bệnh viện Đa Khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng thực hiện kỹ thuật chụp CT mạch máu não khá thường quy với tỷ lệ thành công rất cao và cho chẩn đoán chính xác các bất thường mạch máu đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng, quý khách hàng có thể gọi đến Hotline 0236 821118 hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY. Đặt Stent chuyển hướng dòng chảy điều trị phình mạch não XEM THÊM Cần lưu ý gì trước khi chụp CT mạch máu não? Dấu hiệu cảnh báo viêm màng não ở trẻ sơ sinh Hóa trị điều trị ung thư não Dịch vụ từ Vinmec Bài viết liên quan Mạng lưới giao tiếp trong não bộ con người Não là bộ phận vô cùng quan trọng trong cơ thể, có khoảng 100 tỷ tế bào nơ-ron thần kinh trong não tham gia vào việc điều khiển các chức năng của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể. ... Đọc thêm Trẻ mắc viêm não Nhật Bản dễ tử vong trong 7 ngày đầu tiên mắc bệnh Viêm não Nhật Bản là bệnh thường gặp ở trẻ dưới 15 tuổi, có thể gây tử vong rất nhanh trong vòng 7 ngày đầu tiên do tổn thương hệ thần kinh trung ương. Viêm não Nhật Bản dù được ... Đọc thêm Chảy máu dưới nhện Phần 5 Các biến chứng nội khoa Chảy máu dưới nhện SAH là một bệnh hệ thống, và bệnh nhân thường có các biến chứng nội khoa thêm vào. Lường trước được những biến chứng này dẫn tới chẩn đoán và điều trị nhanh chóng. Đọc thêm Bị sưng sau khi mổ nang não có nguy hiểm không? Chào bác sĩ, em vừa mổ nang trong não hơn 1 tháng vết mổ bên ngoài thấy đã lành và kéo da non nhưng không biết vì sao khoảng 2 ngày nay một bên gần vết mổ bị sưng nhưng ... Đọc thêm Chảy máu dưới nhện Phần 3 Đánh giá ban đầu Chảy máu dưới nhện SAH – subarachnoid hemorrhage là một thể đột quỵ chảy máu não. Đây là cấp cứu thần kinh với tỷ lệ tàn phế và tử vong cao. Nội dung bài viết tập trung vào đánh giá ... Đọc thêm HỏiChào bác sĩ,Em bị đau đầu, em chụp CT thì bác sĩ nói em bị co thắt mạch máu não. Bác sĩ nói bệnh này không chữa được. Vậy bác sĩ cho em hỏi có thể điều trị co thắt mạch máu não không? Em cảm ơn bác hàng ẩn danhTrả lờiĐược giải đáp bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Tống Văn Hoàn - Khoa Hồi sức Cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà bạn,Với câu hỏi “Có thể điều trị co thắt mạch máu não không?”, bác sĩ xin giải đáp như sauChẩn đoán tình trạng đau đầu do co thắt mạch máu não ngoài các triệu chứng của bệnh nhân bao gồm Đau đầu, giảm thị lực, yếu liệt một bên, rối loạn cảm giác, mất thăng bằng,..,bác sĩ khám, chỉ định chụp CT mạch máu não có thuốc cản quang - tiêm vào tĩnh mạch khi chụp phim, hoặc chụp cộng hưởng từ sọ não có chụp mạch máu não MRI sọ não. Sau khi có kết quả, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị cụ thể. Bệnh hoàn toàn có thể điều trị dự phòng ổn định nên bạn yên bạn còn thắc mắc về co thắt mạch máu não, bạn có thể đến bệnh viện thuộc Hệ thống Y tế Vinmec để kiểm tra và tư vấn thêm. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Vinmec. Chúc bạn có thật nhiều sức trọng! Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Quy trình vi phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não gồm có nhiều bước phải thực hiện lần lượt, mục tiêu cuối cùng là nhằm chủ động kiểm soát nếu túi phình chưa vỡ hay khắc phục xuất huyết não nếu túi phình đã vỡ. Dù là trong bệnh cảnh nào, việc hiểu biết rõ về các bước mổ phình động mạch não như sau sẽ củng cố tính đúng đắn cho quyết định điều trị này. Phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não là phẫu thuật nhằm cắt đứt dòng lưu lượng máu chảy đến phình động mạch não. Can thiệp này được thực hiện nhằm để dự phòng trước biến cố vỡ mạch máu và xuất huyết trong sọ não. Đây là một phẫu thuật mở hộp sọ và tương đối phức tạp. Trong đó, bác sĩ phẫu thuật bộc lộ các túi phình động mạch bằng cách cắt sọ và đặt một chiếc kẹp kim loại xuyên qua đáy phình động mạch để máu không thể tiếp tục vào trong túi phình này. Trong những năm gần đây, kẹp kim loại bằng titan thường được sử dụng với những ưu điểm về tính trơ nổi bật hơn so với các chất liệu kim loại khác. Phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não tương đối phức tạp 2. Chuẩn bị gì trước khi phẫu thuật? Chuẩn bị trước khi phẫu thuật sẽ rất khác biệt nhau trong bệnh cảnh người bệnh được đưa đến phòng cấp cứu với phình động mạch não đã vỡ và phình động mạch não chưa với tình huống phình động mạch não đã vỡ và đang đe dọa tính mạng, bệnh nhân cần được đưa ngay vào phòng mổ sau khi các bác sĩ đã xác định được vị trí của túi phình động mạch và huyết áp tạm thời đã được kiểm soát ổn định. Để giảm huyết áp, bác sĩ có thể sử dụng thuốc truyền tĩnh mạch, tăng thông khí trên máy thở hoặc với các thuốc an thần. Một đường cảm ứng do áp suất động mạch xâm lấn có thể được đưa vào động mạch tại cổ tay của bạn để theo dõi huyết áp. Lúc này, người bệnh cần có không gian tuyệt đối nghỉ ngơi tại giường, hạn chế kích thích để huyết áp và các chỉ số sinh tồn khác mau chóng được ổn định trường hợp túi phình động mạch não không vỡ, người bệnh sẽ được sắp xếp thực hiện các xét nghiệm tiền phẫu, như xét nghiệm máu, điện tâm đồ, X-quang ngực... vài ngày trước khi phẫu thuật. Bên cạnh đó, người bệnh và thân nhân hay người đại diện sẽ được bác sĩ giải thích lợi ích và nguy cơ có thể xảy ra trong quá trình can thiệp. Nếu đồng ý, người bệnh cần điền vào giấy tờ và ký giấy chấp thuận. Sau đó, bác sĩ gây mê sẽ thăm khám và hỏi về tiền căn y tế của bạn như dị ứng thuốc, phản ứng gây mê, các cuộc phẫu thuật trước đó... nhằm đánh giá khả năng người bệnh có thể chịu đựng được ca mổ này. Ngoài ra, bác sĩ cũng cần biết các thuốc người bệnh đang dùng, bao gồm kê toa lẫn không kê toa, các loại thảo dược... Nếu đang dùng các loại thuốc chống viêm không steroid và aspirin, người bệnh cần ngưng trong vòng một tuần trước khi phẫu thuật diễn nhân sẽ được sắp xếp nhập viện vào buổi sáng trước phẫu thuật. Không được ăn hoặc uống gì từ thời điểm nửa đêm cho đến khi lên bàn mổ. Một đường truyền tĩnh mạch với dung dịch ưu trương được đặt trong tĩnh mạch tại cánh tay người bệnh. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, một bác sĩ gây mê sẽ giải thích những ảnh hưởng của thuốc mê và sẽ tiến hành gây mê. 3. Quy trình vi phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não diễn ra như thế nào? Quy trình vi phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não có sáu bước. Toàn bộ các bước này sẽ diễn ra trong thời gian từ 3 đến 5 giờ đồng hồ hoặc có thể lâu hơn nếu bước cắt sọ có nhiều phức lượt các bước trong quy trình vi phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não được trình bày sau đâyBước 1 Chuẩn bị bệnh nhânBệnh nhân sẽ nằm ngửa trên bàn mổ và được gây mê toàn đã mê hoàn toàn và thở máy qua nội khí quản, đầu của người bệnh sẽ được đặt trong một thiết bị cố định hộp sọ ba chân, gắn vào bàn để giữ đầu nguyên vị trí trong suốt quá trình phẫu tóc trên hộp sọ cần can thiệp sẽ được cạo sạch và rạch da đầu, bộc bộ xương ống dẫn lưu có thể được đặt trong cột sống thắt lưng rút bớt dịch não tủy, giúp cho não thư giãn hơn trong khi phẫu thuật. Ngoài ra, áp lực sọ não cũng có thể giảm bớt khi người bệnh được truyền một loại dung dịch ưu trương là 2 Thực hiện phẫu thuật cắt sọTùy thuộc vào vị trí túi phình mạch não, một vạt xương sọ tại vị trí đó sẽ xác định và chuẩn bị cắt khi da đầu đã được chuẩn bị sẵn, bác sĩ phẫu thuật sẽ rạch da để lộ hộp sọ. Da và cơ bắp được nhấc ra khỏi xương và gấp theo, các lỗ nhỏ được tạo ra trên nền hộp sọ bằng các mũi khoan. Các lỗ khoan cho phép mở ra lối vào của hộp sọ bằng một cái cưa đặc bác sĩ phẫu thuật sẽ cắt đi một cửa sổ xương. Vạt xương cắt được nâng lên và gỡ bỏ để lộ lớp vỏ cứng bảo vệ của não, được gọi là màng cứng cũng sẽ được mở ra, bộc lộ nhu mô 3 Tiếp cận túi phình động mạchKhi màng cứng được mở ra, nhu mô não sẽ được bộc cách làm việc dưới kính hiển vi, bác sĩ phẫu thuật sẽ định vị cẩn thận các động mạch và lần theo nó đến túi phình động mạch cần can khi đặt clip, bác sĩ phẫu thuật sẽ kiểm soát lưu lượng máu đi vào và đi ra khỏi túi phình động lý phình động mạch cần hết sức cẩn trọng vì có thể gây vỡ. Nếu vỡ xảy ra trong khi phẫu thuật, một clip tạm thời có thể được đặt trên động mạch đoạn gốc để cầm thuộc vào kích thước và vị trí túi phình động mạch, việc kiểm soát lưu lượng máu đôi khi có thể phải cần tiếp cận tại đoạn động mạch cảnh ở cổ thông qua một vết mổ 4 Kẹp clip túi phìnhThông thường túi phình động mạch được giữ chặt bởi các mô liên kết xung quanh. Do đó, cần phải bóc tách túi phình khỏi các cấu trúc khác trước khi được chuẩn bị để nhánh động mạch nhỏ cũng cần phải được lưu ý để chúng không bị kẹp đồng thời trong clip được mở ra và được đặt ngang cổ phình mạch. Khi đã đảm bảo kiểm soát toàn diện, hai hàm của clip sẽ đóng chặt túi phình động mạch từ ngay động mạch clip có thể cùng lúc được sử dụng với các túi phình khác clip được làm bằng chất liệu titan và sẽ tồn tại trên động mạch vĩnh 5 Kiểm tra clipSau khi kẹp, bác sĩ phẫu thuật sẽ cần kiểm tra lại clip để chắc chắn rằng clip không kẹp nhầm vào làm hẹp cả động mạch gốc hoặc các động mạch khác trong hàm của chí, phần túi phình động mạch não còn được đâm xuyên bằng kim để đảm bảo rằng máu không còn lấp đầy trong thời, người bệnh cũng được chụp lại hệ thống động mạch não ngay trong phòng phẫu thuật để có thể xác nhận lưu lượng máu qua động mạch 6 Đóng nắp sọMàng cứng sẽ được đóng lại bằng chỉ xương được đậy lại và được cố định vào hộp sọ bằng các tấm titan với ốc cơ và lớp da cũng được khâu lại với cùng, một băng gạc mềm sẽ được đặt trên che đậy vết mổ. Quy trình vi phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não gồm 6 bước 4. Cần chăm sóc gì sau phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não? Sau khi phẫu thuật kết thúc, người bệnh sẽ được đưa vào phòng hồi sức để tiếp tục theo dõi các dấu hiệu sinh tồn cho đến khi tỉnh dậyTiếp đó, bệnh nhân sẽ được chuyển đến đơn vị chăm sóc chuyên sâu về thần kinh để theo dõi trong suốt những ngày nằm viện. Thuốc giảm đau sẽ có chỉ định khi cần thiết. Một số người bệnh có thể bị buồn nôn và đau đầu sau phẫu thuật; tuy nhiên, các triệu chứng này có thể kiểm soát được bằng bệnh cũng được khuyến khích sinh hoạt tại giường hay có thể tự đi lại nhẹ nhàng quanh phòng ngay khi có thể. Nếu mọi thứ ổn định, sau một vài ngày, bệnh nhân có thể được xuất với các trường hợp bị phình động mạch vỡ, người bệnh cần ở lại khoa hồi sức trong 14 đến 21 ngày và được theo dõi các dấu hiệu co thắt mạch máu. Đây là một phản xạ sinh lý của mạch máu não khi xảy ra xuất huyết não và hệ quả sẽ dẫn đến nhồi máu não thứ phát. Hiện tượng co thắt động mạch có thể xảy ra sau từ 3 đến 14 ngày. Các dấu hiệu co thắt bao gồm yếu tay hoặc chân, nhầm lẫn, buồn ngủ hoặc kích thích, vật được về nhà, người bệnh cần được hướng dẫn cách chăm sóc vết mổ và phát hiện sớm các dấu hiệu nhiễm trùng, đồng thời nên nghỉ ngơi thường xuyên, tránh căng thẳng hay vận động quá sức. Nếu người bệnh có di chứng tổn thương não thì có thể phối hợp vật lý trị liệu hoặc phục hồi chức lại, phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não là phương pháp kinh điển nhằm can thiệp dự phòng hay giải quyết hậu quả của các trường hợp có túi phình động mạch trong não. Chỉ định của việc can thiệp phụ thuộc vào đặc điểm của túi phình nhưng thành công của cuộc mổ còn phụ thuộc vào sự tuân thủ quy trình, đòi hỏi tính tỉ mỉ và chính xác theo từng bước như tham khảo Phình mạch máu não - kiến thức cần thiết Đặt Stent chuyển hướng dòng chảy điều trị phình mạch não XEM THÊM Các tai biến hay gặp nhất trong nội soi vi phẫu kẹp túi phình động mạch não Chỉ định vi phẫu thuật kẹp túi phình động mạch não Tìm hiểu phương pháp nút túi phình động mạch não tại Vinmec Hội chứng bệnh não sau có hồi phục PRES và hội chứng co thắt mạch não có hồi phục RCVS Tác giả Aneesh B. Singhal Biên dịch BS. Nguyễn Ngọc Lương Hiệu đính BS. Huỳnh Đăng Lộc, BS. Hoàng Tiến Trọng Nghĩa Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 175 TỔNG QUAN Mục tiêu Bài viết này mô tả nguyên nhân, đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học, hướng xử trí và tiên lượng của hội chứng bệnh não sau có hồi phục PRES và hội chứng co thắt mạch não có hồi phục RCVS, bệnh lý mà sinh lý bệnh cơ bản đều liên quan đến rối loạn điều hòa có hồi phục của mạch máu não. Phát hiện gần đây PRES và RCVS là những thuật ngữ dùng để mô tả hai tình trạng bệnh lý với các biểu hiện lâm sàng và hình ảnh học tương tự nhau. Nhức đầu, triệu chứng thị giác, co giật và lú lẫn xảy ra ở cả hai hội chứng. RCVS thường khởi phát bằng những cơn đau đầu kiểu sét đánh tái phát, trong khi bệnh não và co giật là những biểu hiện lâm sàng điển hình trong PRES. Trong PRES, hình chụp não cho thấy hình ảnh phù căn nguyên mạch có thể hồi phục, thường đối xứng và nằm ở các vùng dưới vỏ chủ yếu là vùng não phía sau. Trong RCVS, hình chụp não thường bình thường; chụp động mạch não cho thấy sự co mạch-giãn mạch theo từng phân đoạn, chủ yếu ở các động mạch thuộc đa giác Willis và các nhánh của chúng. Ngoài các đặc điểm lâm sàng tương tự, còn tồn tại sự trùng lắp đáng kể trên hình ảnh học giữa hai hội chứng này. Cả PRES và RCVS đều có thể có hình ảnh nhồi máu và xuất huyết; ngoài ra, bất thường mạch máu vẫn thường xảy ra trong PRES và ngược lại thì tổn thương phù căn nguyên mạch vẫn có thể gặp trong RCVS. Các yếu tố kích gợi thường gặp ví dụ sản giật, thuốc co mạch và hóa trị liệu cũng đã được xác định. Bất thường trương lực mạch máu não và rối loạn chức năng nội mô có thể giải thích cho cả hai hội chứng. Quản lý các hội chứng này bao gồm loại bỏ các yếu tố kích gợi đã xác định, điều trị triệu chứng đau đầu hoặc co giật và kiểm soát huyết áp trung bình. Cả hai hội chứng đều tự giới hạn, với sự phục hồi lâm sàng xảy ra trong vài ngày đến vài tuần. Tỷ lệ còn tồn tại triệu chứng hoặc tử vong là không phổ biến.. Tóm tắt PRES và RCVS đã được mô tả là hai hội chứng có sự chồng chéo đáng kể về lâm sàng và hình ảnh học. Những tiến bộ trong hiểu biết của chúng ta về sinh lý bệnh và các yếu tố nguy cơ tiên lượng xấu được kỳ vọng sẽ tối ưu hóa việc quản lý các hội chứng không hiếm gặp này. GIỚI THIỆU Bệnh nhân có các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học phù hợp với hội chứng bệnh não phía sau có hồi phục PRES và hội chứng co thắt mạch máu não có hồi phục RCVS đã được mô tả trong các báo cáo ca hoặc loạt ca từ những năm 1960. Mô tả có hệ thống đầu tiên về PRES là vào năm 1996 là kết quả của việc nhóm chung lại một số tình trạng bệnh lý đã được mô tả trước đây ví dụ, bệnh não tăng huyết áp và bệnh não do tăng urê máu, tiền sản giật/sản giật, và bệnh não liên quan đến hóa trị và miễn dịch dựa trên đặc điểm chung về hình ảnh học của chúng là phù não do mạch máu ưu thế ở vùng não phía sau và thường tự hồi phục. Khái niệm RCVS cũng được hình thành tương tự thuật ngữ hội chứng co thắt mạch máu não được giới thiệu cách đây gần 2 thập kỷ để nhóm chung các tình trạng bị hẹp và giãn động mạch não từng đoạn cấp tính và có hồi phục, thường khởi phát bằng triệu chứng đau đầu sét đánh ví dụ bệnh mạch máu não sau sinh; co thắt mạch máu não liên quan đến thuốc, hóa trị và các chất điều biến miễn dịch; hội chứng Call hoặc Call-Fleming; viêm mạch máu nửa đầu; giả viêm mạch hệ thần kinh trung ương; và bệnh mạch máu lành tính của hệ thần kinh trung ương. Trong vài năm qua, một số nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu và hồi cứu và các bài báo tổng quan đã mô tả toàn diện PRES và RCVS dẫn đến việc chúng được thừa nhận như là hội chứng rối loạn điều hòa mạch máu não hầu như luôn có thể đảo ngược và tự giới hạn trong diễn tiến lâm sàng của chúng. Ngoài ra, bệnh nhân có các đặc điểm của cả hai hội chứng hội chứng trung lắp giữa PRES / RCVS đã được mô tả và những điểm tương đồng giữa PRES và RCVS về biểu hiện các triệu chứng, biến chứng và hình ảnh học đã được công nhận, dẫn đến khái niệm về sự trùng lắp sinh lý bệnh. Cả hai hội chứng này đều thường gặp trong khoa cấp cứu và cơ sở chăm sóc đặc biệt về thần kinh cũng như trên các khoa điều trị nội trú. Bài viết này đánh giá những điểm giống nhau của PRES và RCVS và sự khác biệt về yếu tố kích gợi, các đặc điểm về lâm sàng, hình ảnh học, sinh lý bệnh, quản lý và tiên lượng của chúng. DỊCH TỄ Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự bùng nổ của các báo cáo được công bố về PRES và RCVS nhờ vào đặc điểm đặc trưng của chúng kết hợp với việc chẩn đoán dễ dàng hơn do việc sử dụng rộng rãi CT, MRI não, mạch não. Trước đây được coi là hiếm gặp, tuy nhiên PRES và RCVS hiện gặp thường xuyên trong thực hành lâm sàng, theo ICD-10 các mã của hội chứng trên lần lượt là PRES, RCVS, PRES có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mặc dù phổ biến nhất là người trẻ hoặc trung niên và có ưu thế là nữ. PRES đã được báo cáo ở 0,4%-8% người lớn và 2%-25% trẻ em được ghép tạng hoặc tủy xương và lên đến 25% bệnh nhân bị bệnh lý tự miễn, nhiễm trùng hoặc bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Ở trẻ em, PRES được quan sát thấy ở 0,4% số ca nhập viện hồi sức tích cực và chiếm 0,04% số ca nhập viện, với tỷ lệ tử vong là 3,2%. Các báo cáo về RCVS bao gồm hơn 1200 bệnh nhân từ các nơi, chủng tộc và dân tộc khác nhau chỉ trong 15 năm qua. Độ tuổi từ 4 tháng đến 82 tuổi, với tuổi trung bình là 42 đến trong các nghiên cứu đoàn hệ lớn. Tỷ lệ nữ trên nam dao động từ 2 1 đến 10 1 trong các nghiên cứu đoàn hệ. Tuy nhiên, ở trẻ em, nam giới chiếm ưu thế hơn. Nam giới bị thường ở độ tuổi trẻ hơn, bắt đầu hoạt động tình dục thường xuyên hơn CASE 5-1 và lành tính hơn nữ giới. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG PRES có thể khởi phát cấp tính hoặc bán cấp hoặc có thể được chẩn đoán trên hình ảnh học trong quá trình đánh giá định kỳ các khối u hoặc bệnh não. Hầu hết bệnh nhân có biểu hiện lú lẫn hoặc bệnh não cấp tính BẢNG 5-1. Động kinh cơn co cứng co giật toàn thể hoặc cơn động kinh dưới lâm sàng ví dụ, gai sóng vùng chẩm trên điện não đồ gặp ở khoảng 2/3 số bệnh nhân. PRES nên được nghĩ đến ở bất kỳ bệnh nhân nào có rối loạn ý thức không giải thích được đặc biệt ở những người tăng huyết áp, suy thận, suy giảm miễn dịch hoặc đang điều trị hóa chất. Tăng huyết áp nặng thường xuất hiện, mặc dù PRES vẫn có thể được chẩn đoán mà không có tăng huyết áp. Những bệnh nhân không bị bệnh não nặng thường nhớ lại những cơn đau đầu và các triệu chứng thị giác. Đau đầu có thể đột ngột và dữ dội nhưng phổ biến hơn là từ từ, lan tỏa và tự giới hạn. Các triệu chứng thị giác bao gồm nhìn mờ, ám điểm thậm chí mù vỏ não. Thị lực thường hồi phục khi điều trị khỏi bệnh não. Bệnh nhân hiếm có biến chứng của PRES, chẳng hạn như nhồi máu hoặc xuất huyết não vùng chẩm dẫn đến các triệu chứng thị giác không thể đảo ngược hoặc các thiếu hụt thần kinh khu trú khác như liệt nửa người. Các biểu hiện cột sống cũng đã được mô tả trong một số ít trường hợp, thường là phù tủy sống cổ trên MRI có hoặc không có các triệu chứng cột sống. Các triệu chứng RCVS trùng lắp với các triệu chứng của PRES nhức đầu, co giật, các triệu chứng thị giác, bệnh não; tuy nhiên, sự khác biệt rõ ràng cũng được ghi nhận BẢNG 5-1. Như đã nêu rõ trong CASE 5-1, RCVS thường khởi phát cấp tính với cơn đau đầu dữ dội đạt đến đỉnh điểm trong vòng 1 phút đau đầu kiểu sét đánh, tương tự như đau đầu của vỡ túi phình và các tình trạng nghiêm trọng khác được thảo luận trong phần chẩn đoán phân biệt. Đau đầu kiểu sét đánh tái phát ở khoảng 85% đến 90% bệnh nhân, với trung bình bốn lần tái phát trong khoảng từ 1 đến 4 tuần, thường khởi phát khi gắng sức hoặc thực hiện nghiệm pháp Valsalva; tuy nhiên, cường độ và tần số của chúng giảm dần theo thời gian. Một số ít bệnh nhân, thường là phụ nữ đang mang thai, cho biết đau đầu nhẹ hơn và khởi phát kiểu từ từ không phải kiểu sét đánh hoặc thậm chí không có đau đầu. Co giật ở RCVS ít xảy ra hơn nhiều so với PRES, thường là cơn co cứng co giật toàn thể và tự giới hạn, và không tái phát sau khi khỏi RCVS, ngoại trừ một số bệnh nhân hiếm hoi bị tổn thương não không hồi phục. Các triệu chứng thị giác tương tự như các triệu chứng được báo cáo với PRES nhìn mờ, ám điểm và mù vỏ não, đôi khi có một số triệu chứng của hội chứng Balint. Lú lẫn nhẹ khi khởi phát thường xảy ra, thường kết hợp với đau đầu dữ dội, nhưng bệnh não nặng hoặc kéo dài là không phổ biến. Tăng phản xạ lan tỏa là một dấu hiệu thực thể phổ biến, có thể phản ánh rối loạn điều hòa tự động và tăng hoạt động của hệ serotonergic. Như với PRES, các thiếu hụt thần kinh khu trú như mất ngôn ngữ hoặc liệt nửa người có thể gặp ở bệnh nhân thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết não do RCVS. ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH HỌC Các tổn thương PRES được đánh giá tốt nhất trên phim MRI T2 FLAIR là các tổn thương tăng tín hiệu đối xứng thường nằm ở thùy chẩm và thùy trán chủ yếu là ở vùng vỏ – dưới vỏ và bán cầu tiểu não BẢNG 5-1. Ba dạng hình ảnh phổ biến đã được mô tả tổn thương đỉnh chẩm, tổn thương vùng ranh giới sâu và tổn thương hồi trán trên HÌNH 5-2. Ít phổ biến hơn là các tổn thương liên quan đến hạch nền và thân não. Tổn thương PRES phản ánh tình trạng phù căn nguyên mạch có thể đảo ngược và do đó luôn có hình ảnh tăng tín hiệu hoặc đồng tín hiệu trên phim ADC, hầu như luôn phục hồi trong vòng vài ngày đến vài tuần. Tuy nhiên, có đến một phần ba số bệnh nhân xuất hiện các tổn thương không đồng nhất với các vùng giảm tín hiệu hạn chế khuếch tán, cho thấy phù kiểu nhiễm độc tế bào do thiếu máu cục bộ, thường không hồi phục trong vùng tăng tín hiệu trên ADC. Có đến 1/4 số bệnh nhân bị xuất huyết não thùy hoặc xuất huyết dưới nhện. Hình ảnh mạch máu não trong PRES cho thấy tình trạng hẹp và giãn động mạch từng đoạn hình dạng “xúc xích trên dây” giống với các bất thường chụp mạch của RCVS CASE 5-2 và CASE 5-3 ở khoảng 50% bệnh nhân. Sự co mạch có hồi phục của các động mạch hệ thống không được mô tả trong PRES, không giống như trong RCVS, được mô tả phía dưới. HÌNH 5-5 cho thấy các loại tổn thương và tần suất của các hình ảnh tổn thương trong RCVS. Hơn 70% bệnh nhân RCVS được chụp MRI não không có tổn thương nhu mô, mặc dù có biểu hiện co mạch não lan tỏa. Tổn thương dạng đường hoặc hình chấm trong khoang rãnh được tìm thấy ở 20% đến 40% bệnh nhân, phản ánh dòng chảy chậm trong các mạch máu bị dãn ra bất thường. Mặc dù hình ảnh não ban đầu thường bình thường, có tới 70% bệnh nhân nội trú bị xuất huyết dưới nhện, xuất huyết nhu mô, nhồi máu não, hoặc phù não căn nguyên mạch PRES riêng lẻ hoặc kết hợp trong 2 tuần sau đó. Các tổn thương xuất huyết có xu hướng xuất hiện sớm hơn các tổn thương do thiếu máu cục bộ. Tương tự như PRES, các tổn thương thiếu máu cục bộ và phù nề của RCVS thường nằm ở vùng ranh giới phía sau và vùng vỏ-dưới vỏ của thùy đính và thùy trán, hiếm khi ảnh hưởng đến cấu trúc sâu, và thường liên quan đến bán cầu tiểu não. Siêu âm Doppler xuyên sọ có thể cho thấy vận tốc dòng máu tăng cao; tuy nhiên, có ít mối tương quan giữa vận tốc dòng chảy và sự hẹp nhiều chỗ của động mạch não. MRI thành mạch độ phân giải cao thường cho thấy động mạch kém bắt thuốc trong RCVS. Các phương pháp chụp mạch não trong RCVS theo định nghĩa là bất thường, có sự co mạch và giãn mạch từng đoạn hình dạng “chuỗi xúc xích”. Các tổn thương mạch máu cùng tồn tại ở 20% bệnh nhân, chẳng hạn như bóc tách động mạch vùng cổ, túi phình động mạch không vỡ, cavernoma, và loạn sản sợi. Động mạch ngoài sọ động mạch cảnh ngoài sọ, võng mạc, thận, mạc treo ruột, mạch vành hiếm khi bị ảnh hưởng và có thể biểu hiện tương tự với chứng loạn sản sợi. Các trường hợp hiếm gặp mắc đồng thời bệnh cơ tim takotsubo, có lẽ là do co thắt mạch vành, đã được báo cáo. Tình huống 1 Bệnh nhân nam, 46 tuổi bị đau đầu dữ dội ở sau gáy. Đau đầu từng cơn tái đi tái lại, và vào ngày thứ 3, anh bị mù vỏ não và liệt nhẹ nửa người bên trái. Tiền căn đau đầu migraine không tiền triệu, tăng huyết áp, tăng lipid máu và sử dụng cần sa. CT mạch máu não lúc nhập viện cho thấy hình ảnh hẹp đa ổ của động mạch não giữa hai bên HÌNH 1A, động mạch thân nền, động mạch não sau và động mạch tiểu não trên HÌNH 1B. Những bất thường này cũng được thấy trên phim MRA HÌNH 1C. Phim MRI diffusion HÌNH 1D và ADC HÌNH 1E cho thấy tổn thương đối xứng ở thùy chẩm hai bên phù hợp với đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Ngoài ra, MRI não cho thấy các ổ nhồi máu nhỏ ở hai bên bán cầu tiểu não và ở thùy trán bên phải. Các xét nghiệm máu và kết quả của hai lần chọc dịch não tủy cho thấy không có bằng chứng của viêm mạch hoặc xuất huyết dưới nhện. Bệnh nhân đã được điều trị bằng thuốc giảm đau và verapamil. Tình trạng sức khỏe của anh ấy được phục hồi hoàn toàn trong khoảng thời gian 3 tuần, và MRA sau đó cho thấy mạch máu não đã phục hồi HÌNH 1F. Nhận xét Trường hợp này là một ví dụ điển hình của hội chứng co thắt mạch máu não có hồi phục RCVS. Bệnh sử đau đầu kiểu sét đánh tái phát trong vài ngày hầu như là điển hình của hội chứng co thắt mạch não có hồi phục. Các triệu chứng thị giác vỏ não thường gặp và tương quan với các tổn thương thiếu máu cục bộ đối xứng điển hình ở vùng ranh giới của động mạch não giữa và động mạch não sau Hình 1. Hình ảnh học của tình huống 1 Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học của PRES và RCVS Đặc điểm PRES RCVS Lâm sàng Bệnh não 50-80% 10-15% Cơn động kinh 60-75% 0-20% Trạng thái động kinh 5-15% Hiếm gặp Đau đầu 50% 90-95% Triệu chứng thị giác 33% 30-40% Dấu thần kinh định vị 10-15% 9-63% Hình ảnh học Phù não kiểu mạch máu 100% 15-40% Nhồi máu não 15-30% 33% Xuất huyết não 10-25% 15% Xuất huyết dưới nhện 3-8% 40% Co mạch từng đoạn 30-70% 100% Tổn thương mạch máu đồng mắc túi phình, bóc tách… Không thường gặp 20% Bắt thuốc tương phản 20% Không thường gặp Hình 2. Ba kiểu hình ảnh tổn thương của hội chứng bệnh não sau có hồi phục PRES được đánh giá trên phim MRI FLAIR. Tổn thương thùy chẩm chiếm ưu thế A-C. Hình D-F tổn thương chủ yếu ở vùng ranh giới động mạch não trước, giữa, sau trải dài thùy trán, thùy đỉnh và thùy chẩm. Hình G-I là kiểu tổn thương khu trú ở hồi trán trên mà không lan rộng ra cực trán. Hình ảnh học của tình huống 1 Tình huống 2 Bệnh nhân nữ, 36 tuổi bị đau đầu nhiều liên quan đến tăng huyết áp mới khởi phát 10 ngày sau khi sinh song thai bằng phương pháp mổ lấy thai. Phim MRI và CT não ban đầu thì bình hiện đau đầu kéo dài dù đã dùng thuốc hạ huyết áp; một cơn động kinh và một giai đoạn mất ngôn ngữ cùng liệt nửa người. Chụp MRI lại vào ngày thứ 18 sau sinh HÌNH 5-3A cho thấy các vùng tăng tín hiệu ở cả hai thùy chẩm phù hợp với phù nề kiểu mạch máu. Các đặc điểm hình ảnh lâm sàng này phù hợp với hội chứng bệnh não phía sau có hồi phục PRES. Phim MRA của HÌNH 5-3B cho thấy hẹp đa ổ đoạn gần động mạch não trước, giữa và sau. Phát hiện này phù hợp với bệnh lý mạch máu não sau sinh một bệnh lý được bao gồm trong thuật ngữ chung là hội chứng co thắt mạch máu não có thể đảo ngược [RCVS]. MRI thu được vào ngày 19 sau sinh cho thấy các tổn thương tăng tín hiệu trên phim FLAIR HÌNH 5-3C và phim diffusion HÌNH 5-3D phù hợp với hình ảnh nhồi máu não. Bất chấp nhiều nỗ lực để làm giãn động mạch não bằng cách tiêm thuốc dãn mạch vào trong động mạch não, bệnh nhân vẫn tiến triển nặng thêm. MRA tiếp theo HÌNH 5-3E cho thấy tình trạng hẹp động mạch não đa ổ ngày càng nặng hơn, và phim FLAIR cho thấy nhồi máu não hai bên kèm theo phù và xuất huyết HÌNH 5-3F. Cuối cùng bệnh nhân đã tử vong. Khi khám nghiệm tử thi, các động mạch não không có dấu hiệu viêm. Nhận xét Trường hợp này là một ví dụ điển hình của sản giật sau sinh liên quan đến bệnh lý mạch máu sau sinh tức là PRES và RCVS, là những tình trạng bệnh lý có liên quan lẫn nhau và là nguyên nhân thường gặp của nhồi máu não và xuất huyết não sau sinh. Những hội chứng này rất khó để tiên đoán hoặc ngăn ngừa. Chưa có phương pháp điều trị nào được chứng minh có hiệu quả, mặc dù việc kiểm soát huyết áp, bổ sung magiê và điều trị bằng thuốc chẹn kênh canxi được coi là quan trọng. Mặc dù 90% bệnh nhân sẽ tự giới hạn và hồi phục trong vài ngày đến vài tuần, một số bệnh nhân như trong trường hợp này sẽ tiến triển, thường dẫn đến tử vong. Trường hợp này làm nổi bật nguy cơ tiềm ẩn đối với tổn thương do co mạch và tái tưới máu khi chụp mạch xâm lấn và liệu pháp giãn mạch nội mạch. Hình 3. Hình ảnh học của tình huống 2 Tình huống 3 Bệnh nhân nữ, 49 tuổi bị đau đầu dữ dội đạt đỉnh trong vài giây. Những cơn đau đầu tương tự tái phát hai lần trong 2 ngày tiếp theo và kèm giảm thị lực trung tâm trong cơn. Vào ngày thứ 4 sau khi bắt đầu có triệu chứng, cô ấy bị một cơn động kinh toàn thể. BN bị tăng huyết áp 230/130 mm Hg, và khám thần kinh ghi nhận tăng phản xạ gân cơ. Xét nghiệm nước tiểu và độc chất không ghi nhận bất thường đáng chú ý. MRI sọ não ghi nhận phù do mạch máu ở vùng chẩm hai bên HÌNH 5-4A, phù hợp với hội chứng bệnh não phía sau có hồi phục PRES. Chụp CTA cho thấy hẹp từng đoạn ở nhiều động mạch nội sọ HÌNH 5-4B, được xác nhận sau khi chụp DSA HÌNH 5-4C, phù hợp với hội chứng co thắt mạch máu não có hồi phục RCVS. Mặc dù bệnh nhân phủ nhận việc sử dụng với các chất gây co mạch, nhưng hỏi kỹ thêm cho thấy rằng cô ấy đã sử dụng 0,45 kg 1 lb cam thảo mỗi ngày trong 4 tháng. Cam thảo có tác dụng co mạch nên phải ngưng ngay. Bệnh nhân được điều trị bảo tồn bằng thuốc chẹn kênh canxi đường uống. Đau đầu của cô ấy đã hồi phục và chụp CT/ CTA theo dõi sau 3 tháng cho thấy tình trạng phù và co mạch từng đoạn đã được giải quyết HÌNH 5-4D. Nhận xét Trường hợp này là một ví dụ kinh điển của PRES với RCVS. Lưu ý việc hỏi kỹ bệnh sử và tiền căn là cần thiết để phát hiện ra các chất gây co mạch. Hình 4. Hình ảnh học của tình huống 3 Hình 5. MRI sọ não trong RCVS CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT Chẩn đoán PRES dựa trên các đặc điểm lâm sàng kết hợp với hình ảnh phù não do mạch máu. Chẩn đoán phân biệt về hình ảnh học bao gồm nhiễm trùng thần kinh trung ương, bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển, các bệnh hủy myelin, các khối u não như u nguyên bào thần kinh đệm hoặc lymphoma, viêm não tự miễn hoặc cận ung, viêm mạch hoặc bệnh não do nhiễm độc ví dụ heroin. Những bệnh lý này có thể được loại trừ dựa trên tiền căn và đánh giá cẩn thận các tổn thương trên MRI, chụp ảnh não theo dõi để xác nhận khả năng hồi phục của tổn thương hoặc chọc dịch não tủy để loại trừ một số nguyên nhân ở trên. Đối với RCVS, tiếp cận chẩn đoán nên đi từ đặc điểm lâm sàng nổi bật đau đầu kiểu sét đánh và đặc điểm hình ảnh học bất thường động mạch nội sọ. Đối với đau đầu kiểu sét đánh, điều quan trọng là phải xem liệu bệnh nhân có một hay nhiều cơn đau đầu tái phát trong một khoảng thời gian ngắn hay không. Đau đầu sét đánh đơn độc có thể là thứ phát sau các tình trạng như xuất huyết dưới nhện do vỡ túi phình, u tuyến yên, bóc tách động mạch cổ, viêm màng não và huyết khối tĩnh mạch nội sọ. Do đó, hình ảnh sọ não và mạch máu não ngay lập tức được chỉ định để loại trừ các nguyên nhân thứ phát này. Chọc dịch não tủy sau đó có thể được xem xét để loại trừ viêm màng não hoặc xuất huyết dưới nhện. Nếu kết quả đánh giá âm tính, chẩn đoán phân biệt thu hẹp lại thành đau đầu sét đánh nguyên phát vô căn. Nhiều bệnh nhân bị đau đầu sét đánh nguyên phát cũng có những bất thường trên phim mạch máu giống với RCVS. Ở những bệnh nhân khác, những bất thường trên phim mạch máu có thể không có trên hình ảnh ban đầu nhưng trở nên rõ ràng sau đó. Do đó, đau đầu sét đánh nguyên phát được cho là một phần của RCVS. Ở những bệnh nhân có nhiều cơn đau đầu kiểu sét đánh tái phát trong nhiều ngày, xác suất RCVS gần như là 100%. Chụp ảnh não vẫn được chỉ định để khảo sát các biến chứng của RCVS, chẳng hạn như xuất huyết dưới nhện, xuất huyết não thùy, hoặc nhồi máu não. Chẩn đoán phân biệt của một bệnh lý động mạch nội sọ có bằng chứng rõ ràng về bất thường động mạch trên phim mạch máu bao gồm RCVS, viêm mạch thần kinh trung ương nguyên phát, bệnh moyamoya, xơ vữa động mạch nội sọ và viêm mạch nhiễm trùng, và một số bệnh khác. Trước khi có khái niệm về RCVS, nhiều bệnh nhân đã bị chẩn đoán nhầm là viêm mạch thần kinh trung ương nguyên phát và chịu rủi ro khi sinh thiết não và thuốc ức chế miễn dịch suốt đời. Các nghiên cứu so sánh gần đây đã chỉ ra rằng RCVS có thể được phân biệt với viêm mạch thần kinh trung ương nguyên phát với độ chính xác gần 100% dựa trên đặc điểm đau đầu kiểu sét đánh tái phát trong RCVS so với từ từ trong viêm mạch nguyên phát của thần kinh trung ương, các kiểu tổn thương MRI nhồi máu vùng ranh giới đối xứng ở các vùng vỏ-dưới vỏ trong RCVS so với nhồi máu rải rác ở vùng sâu trong viêm mạch và hình ảnh chụp mạch não ví dụ hẹp và dãn dần trong RCVS so với hình dạng không đều trong viêm mạch nguyên phát của thần kinh trung ương. Việc phân biệt sớm là rất quan trọng vì liệu pháp glucocorticoid điều trị viêm mạch thần kinh trung ương nguyên phát có thể dẫn đến kết cục xấu hơn ở RCVS. Điểm RCVS2 được phát triển gần đây HÌNH 5-6 cung cấp độ nhạy cao và độ đặc hiệu từ 99% đến 100% để chẩn đoán RCVS ở người lớn mắc bệnh lý động mạch nội sọ dựa trên hình ảnh học và lâm sàng. Do đó, chẩn đoán sớm có thể được thực hiện ngay tại giường bệnh mà không cần làm thêm các xét nghiệm khác như chụp phim theo dõi để xác định bệnh lý động mạch có hồi phục. Dựa trên các đặc điểm đã thảo luận, bác sĩ lâm sàng sẽ có thể chẩn đoán RCVS một cách dễ dàng và chính xác ngay sau khi nhập viện. Kiểm tra dịch não tủy, chụp MRI 3T có tiêm thuốc tương phản, xét nghiệm marker ví dụ, endothelin 1, vi hạt tuần hoàn và các xét nghiệm xâm lấn tiềm ẩn nhiều rủi ro như truyền thuốc giãn mạch nội mạch và sinh thiết não có công dụng chẩn đoán hạn chế. Cần tập trung vào việc xác định các yếu tố kích gợi gây co mạch tiềm ẩn BẢNG 5-2 bằng cách khai thác bệnh sử và làm các xét nghiệm như nồng độ canxi và magiê, kiểm tra chất độc để tìm các chất ma túy và nồng độ axit vanillylmandelic trong nước tiểu và axit 5-hydroxy-indoleacetic nếu các triệu chứng gợi ý các khối u hoạt mạch như u pheochromocytomas hoặc khối u carcinoid. Hình 6. Thang điểm RCVS 2 và phân phối điểm số ở một số bệnh lý mạch máu não Bảng 2. Những yếu tố kích gợi và bệnh lý liên quan với RCVS Yếu tố kích gợi/bệnh lý liên quan Ví dụ Các bệnh lý đau đầu Đau đầu sét đánh nguyên phát, đau đầu nguyên phát do gắng sức, đau đầu nguyên phát liên quan đến hoạt động tình dục, đau đầu nguyên phát do ho, migraine. Thuốc Thuốc điều trị Mgraine, thuốc cảm lạnh, thuốc chống trầm cảm, thuốc đồng vận adrenergic, các chế phẩm máu, huyết tương, IVIg, hormone, hóa trị liệu và liệu pháp miễn dịch, NSAID… Thuốc gây nghiện Cần sa, cocaine, thuốc lắc, axit lysergic diethylamide, dẫn xuất amphetamine. Thai kỳ và hậu sản Dậy thì sớm, hiếm muộn, sản giật và tiền sản giật, sản giật muộn sau sinh Khác Độ cao, tiếp xúc với nước lạnh, bão, đau buồn nghiêm trọng, tăng calci máu, ngưng nifedipine, ngưng caffein, rối loạn chuyển hóa porphyrin, ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, u pheochromocytoma, khối u carcinoid phế quản, túi phình động mạch não không vỡ, chấn thương đầu, tụ máu dưới màng cứng, huyết khối tĩnh mạch nội sọ, phẫu thuật cắt nội mạc động mạch cảnh sau, u mạc treo, các thủ thuật phẫu thuật thần kinh, kích thích từ trường xuyên sọ lặp đi lặp lại, bệnh lupus ban đỏ hệ thống. BỆNH SINH Sự hiện diện của các bất thường về mạch máu não và tưới máu não, phù kiểu mạch máu, các biến chứng thiếu máu cục bộ và xuất huyết liên quan đến sự suy giảm thoáng qua quá trình tự điều hòa não ở cả hai hội chứng. Thật vậy, hoạt động mạch máu não bất thường rõ rệt trong giai đoạn cấp tính của RCVS so với nhóm đối chứng, và giảm tưới máu não được ghi nhận rõ trong PRES. Mối liên hệ giữa đau đầu sét đánh tái phát và hẹp động mạch não trong RCVS chưa được hiểu rõ nhưng có thể liên quan đến hệ thống mạch máu cho thần kinh sinh ba hoặc hệ serotonergic giữa thân não và mạch máu não. Tương tự, sự khác biệt về phân bố mạch máu của tuần hoàn trước và tuần hoàn sau có thể giải thích sự ưu thế của não sau trong PRES. Tăng huyết áp, có thể xuất phát từ một cơ chế ở trung ương, có vẻ như là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự phá vỡ hàng rào máu não gặp trong cả hai hội chứng. Vai trò của rối loạn chức năng nội mô, endothelin 1, serotonin, cytokine, yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu VEGF, mất cân bằng hormone sinh dục nữ, stress oxy hóa, di truyền, vi RNA tuần hoàn và rối loạn điều hòa tự động cũng đã được chỉ ra nhưng cần tiếp tục nghiên cứu thêm. Không có nguy cơ di truyền nào được biết đến. Cần lưu ý rằng nhiều yếu tố kích hoạt và yếu tố nguy cơ của PRES và RCVS BẢNG 5-2 có cơ sở là co mạch; một số yếu tố liên quan đến mối quan hệ thời gian, nhưng có thể tồn tại các những sai số trong báo cáo và thiếu các nghiên cứu dịch tễ học xác nhận. Nhiễm trùng và vai trò của viêm cũng đã được loại trừ bằng kết quả xét nghiệm dịch não tủy bình thường và những nghiên cứu về bệnh học của động mạch não và nhu mô não. Bệnh lý não trong PRES cho thấy phù nội mô, hoại tử mạch fibrinoid, các vi nhồi máu rải rác, gliosis, và lắng đọng hemosiderin; tuy nhiên, trong một số trường hợp, các tế bào hình sao phản ứng, microglia và tế bào lympho T quanh mạch đã được báo cáo. Các nghiên cứu bệnh học trong RCVS còn hạn chế; tuy nhiên, không có bằng chứng về chứng viêm được tìm thấy. ĐIỀU TRỊ Việc quản lý cả RCVS và PRES cần hiểu rằng cả hai đều là những tình trạng lành tính tự giới hạn. Điều quan trọng là tránh chẩn đoán sai và không điều trị theo kinh nghiệm trong khi tập trung vào điều trị triệu chứng. Không có phương pháp điều trị hoặc chiến lược cụ thể nào được chứng minh hiệu quả để giải quyết phù nề do mạch máu trong PRES hoặc các bất thường mạch máu trong RCVS. Tương tự, không có chiến lược nào được thiết lập để ngăn ngừa các biến chứng như đột quỵ do thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết hoặc tình trạng co mạch trở nên tồi tệ hơn. Việc loại bỏ yếu tố kích gợi nếu được xác định, ít nhất là cho đến khi lâm sàng và hình ảnh học phục hồi là hợp lý và quan trọng trong cả hai bệnh lý trên. Ở những bệnh nhân mắc PRES, việc phân nhóm thích hợp đến cơ sở chăm sóc đặc biệt hoặc tầng dành cho bệnh nhân nội trú phụ thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân ví dụ co giật, bệnh não, sản giật và mức độ tăng huyết áp. Các chuyên gia đồng ý rằng nên điều trị tăng huyết áp nghiêm trọng và tránh những dao động của huyết áp. Vì mục đích này, theo dõi huyết áp động mạch và dùng thuốc hạ áp đường tĩnh mạch thường cần thiết. Việc lựa chọn thuốc hạ huyết áp chưa được nghiên cứu, mặc dù hầu hết các bác sĩ lâm sàng ủng hộ thuốc chẹn kênh canxi vì tác dụng giãn mạch của chúng. Huyết áp nên được giảm dần khoảng 25% sau mỗi 3 đến 4 giờ. Chăm sóc nên được dùng để tránh hạ huyết áp và làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu máu não, đặc biệt khi đối mặt với giảm tưới máu não và RCVS đồng thời. Ở những bệnh nhân bị tiền sản giật hoặc sản giật nặng, cần đảm bảo kết thúc thai kỳ sớm và chỉ định magie sulfat để điều trị và dự phòng co giật. Những bệnh nhân có ý thức thay đổi cần được theo dõi bằng điện não đồ để biết trạng thái động kinh dưới lâm sàng và điều trị phù hợp. Co cứng co giật toàn thể là thường gặp khi khởi phát đối với PRES nhưng thường không tái phát, do đó, thuốc chống động kinh dài hạn không được khuyến cáo trừ khi các cơn co giật tái phát do tổn thương não không hồi phục. Hầu hết các bác sĩ lâm sàng không dùng thuốc chống động kinh dự phòng cho bệnh nhân PRES hoặc RCVS, ngay cả khi có tổn thương cấu trúc não, trừ khi bệnh nhân bị co giật tái phát hoặc các phát hiện liên quan đến điện não đồ, trong trường hợp này, đánh giá lâm sàng và điện não đồ theo dõi được sử dụng để xác định thời gian điều trị dự phòng chống động kinh thích hợp. Corticosteroid có thể thúc đẩy PRES, không liên quan đến mức độ phù nề kiểu mạch máu, và có thể làm trầm trọng thêm tình hình ở những bệnh nhân đồng mắc RCVS, vì vậy tốt nhất nên tránh dùng trong PRES. Tăng đường huyết có liên quan đến tiên lượng xấu hơn và cần được điều trị kịp thời. Điều trị triệu chứng đau đầu và trấn an là những khía cạnh quan trọng của điều trị. Những bệnh nhân bị mất chức năng do đột quỵ có thể cần đến liệu pháp phục hồi chức năng. Mặc dù khởi phát khá tối cấp với đau đầu sét đánh và co thắt mạch máu não, phần lớn bệnh nhân RCVS không có tổn thương nhu mô não hoặc thiếu hụt thần kinh khu trú. Nhiều bệnh nhân đau đầu sét đánh đơn độc được xuất viện tại khoa cấp cứu chỉ nhập viện lại vì đau đầu tái phát, lúc này chụp mạch máu não cho thấy co mạch dẫn đến chẩn đoán RCVS. Quản lý bệnh nhân RCVS chủ yếu là theo dõi triệu chứng cho đến khi cơn đau đầu được kiểm soát và các đợt tái phát bắt đầu thuyên giảm; điều này thường mất một vài ngày. Đau đầu dữ dội có thể cần dùng thuốc chống viêm không steroid như indomethacin hoặc ibuprofen và thậm chí điều trị bằng opioid. Bệnh nhân RCVS với thiếu hụt thần kinh khu trú và co mạch nặng hoặc bất thường hình ảnh não nên được nhập viện trong thời gian dài hơn. Nguy cơ cao nhất của các biến chứng xuất huyết là trong tuần đầu tiên và các biến chứng thiếu máu cục bộ thường ở tuần thứ hai. Việc phân loại thích hợp vào tầng dành cho bệnh nhân nội trú thay vì đơn vị chăm sóc đặc biệt đòi hỏi phải có sự quyết định về mặt lâm sàng, đánh giá khả năng đo huyết áp và liệu có các yếu tố dự báo tiên lượng kém như sử dụng glucocorticoid hoặc thuốc co mạch serotonergic hay không. Siêu âm Doppler xuyên sọ hàng ngày rất hữu ích để theo dõi vận tốc dòng máu nội sọ mặc dù độ nhạy và độ đặc hiệu của chúng bị hạn chế và vận tốc dòng chảy bình thường có thể không tương quan với các bất thường khi chụp mạch. Các nguyên tắc quản lý huyết áp và co giật trong RCVS tương tự như các nguyên tắc được mô tả ở trên đối với PRES. Điều quan trọng là phải tích cực hơn trong việc kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân đồng mắc RCVS và PRES. Thuốc chẹn kênh canxi ví dụ nimodipine, verapamil nên được xem xét vì được cho là có tác dụng giãn mạch, nhưng không được chứng minh là ảnh hưởng đến thời gian co mạch. Tuy nhiên, chúng có thể làm giảm cường độ đau đầu và hầu hết các bác sĩ lâm sàng sử dụng các loại thuốc này cho đến khi giải quyết được cơn đau đầu hoặc các bất thường về chụp mạch. Những sai lầm phổ biến trong điều trị RCVS bao gồm sử dụng triptan, ergots, hoặc các loại thuốc co mạch dùng trong điều trị Migraine; dùng glucocorticoid hoặc tiến hành sinh thiết não hoặc truyền thuốc giãn mạch để loại trừ các bệnh lý động mạch không phải RCVS như viêm mạch. Cần lưu ý rằng truyền thuốc giãn mạch có tác dụng ngắn hạn và có thể gây tổn thương do tái tưới máu. Mặc dù các báo cáo ca cho thấy hiệu quả, nhưng không có bằng chứng rõ ràng về lợi ích; do đó, thủ thuật xâm lấn này không thể được chấp nhận cho các mục đích chẩn đoán thường quy và nên được dành như liệu pháp cứu cánh cho tình trạng xấu đi rõ rệt trên lâm sàng. TIÊN LƯỢNG Kết cục của cả RCVS và PRES thường là tốt, với khả năng phục hồi các triệu chứng lâm sàng và bất thường hình ảnh trong vòng vài ngày đến vài tuần ở khoảng 80% đến 90% bệnh nhân mắc PRES và hơn 90% bệnh nhân RCVS. Chụp não và mạch máu não thường được theo dõi để xác nhận sự phục hồi của các bất thường nhu mô não hoặc mạch máu và chẩn đoán loại trừ các nguyên nhân khác; tuy nhiên, vai trò của việc làm này đang trở nên hạn chế với bệnh sử tự giới hạn và việc cải thiện độ chính xác của chẩn đoán sớm. Với PRES, thời gian trung bình để hồi phục về lâm sàng là dưới 1 tuần; về hình ảnh học có thể lâu hơn. Suy giảm nhận thức lâu dài và các triệu chứng thần kinh như giảm thị lực hoặc chóng mặt đã được báo cáo ở 10% đến 20% bệnh nhân; tuy nhiên, chúng thường nhẹ và không gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Động kinh tái phát có thể xảy ra do các biến chứng nhồi máu hoặc hoặc xuất huyết. Bệnh nhân PRES xuất huyết và PRES ở bệnh nhân tăng đường huyết có kết cục xấu hơn, thời gian hồi phục lâu hơn. Tử vong ví dụ, do phù não tiến triển hoặc xuất huyết não đã được báo cáo ở 5% đến 7% bệnh nhân; tuy nhiên, những bệnh nhân này nặng và tử vong không phải lúc cũng do PRES trực tiếp. PRES tái phát đã được báo cáo ở 5% đến 10% bệnh nhân, thường liên quan đến tăng huyết áp không kiểm soát hoặc có sử dụng thuốc ức chế miễn dịch. Loại bỏ liệu pháp hóa trị liệu hoặc ức chế miễn dịch được khuyến cáo trong giai đoạn cấp tính, và các thuốc thay thế nên được xem xét, nếu có thể, sau khi điều trị khỏi PRES. Tiền sản giật và sản giật có liên quan đến nguy cơ cao hơn về các kết cục tim mạch trong tương lai như tăng huyết áp, bệnh mạch vành và đột quỵ; tuy nhiên, nguy cơ lâu dài của PRES vẫn chưa được biết rõ. Khoảng một phần ba số bệnh nhân RCVS tiến triển thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết, nhưng 90% tự giới hạn vào thời điểm xuất viện và 95% đến 98% là phục hồi hoàn toàn trong vòng 3 tháng. Đau đầu kiểu sét đánh thường tái phát, trung bình khoảng 4 cơn, trong khoảng thời gian vài ngày đến vài tuần, sau đó giảm dần. Sự phục hồi của chúng không phụ thuộc với sự bất thường của mạch máu não, những bất thường mạch máu não có thể mất 2 đến 3 tháng để hồi phục. Tỷ lệ tử vong đã được báo cáo trong 2,5% ở bệnh nhân nội trú, và kết cục xấu hơn có liên quan đến việc mang thai và các yếu tố khác như điều trị glucocorticoid. Đau đầu mãn tính và các triệu chứng tâm thần, chẳng hạn như lo âu và trầm cảm thường gặp và có liên quan đến chất lượng cuộc sống thấp hơn. Như với PRES, việc loại bỏ các chất gây co mạch, bao gồm thuốc điều trị Migraine và thuốc chống trầm cảm, là hợp lý cho đến khi hồi phục. Bệnh nhân RCVS bị trầm cảm kéo dài có thể cần sử dụng thuốc chống trầm cảm thuộc hệ serotonergic, có vẻ an toàn vì những thuốc này không có liên quan với RCVS tái phát. Lưu ý rằng vẫn nên tránh dùng triptan vì chúng được chống chỉ định ở những bệnh nhân mắc bệnh lý mạch máu não. KẾT LUẬN PRES và RCVS đang được chẩn đoán và báo cáo với tần suất ngày càng tăng. Các tài liệu gần đây khẳng định có sự trùng lặp đáng kể về các đặc điểm lâm sàng, hình ảnh và hình chụp mạch máu của chúng, cho thấy chúng có chung một sinh lý bệnh dựa trên sự co thắt mạch não và sự phá vỡ hàng rào máu não. Cả hai hội chứng đều tự giới hạn và có tiên lượng tốt. Đánh giá cẩn thận các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh não thường cho phép chẩn đoán sớm chính xác, điều này rất quan trọng vì các liệu pháp điều trị theo kinh nghiệm, bao gồm glucocorticoid để điều trị bệnh lý tương tự như viêm mạch thần kinh trung ương nguyên phát, có thể làm trầm trọng thêm PRES và đặc biệt là RCVS. Mỗi năm, thế giới có gần ca tử vong do vỡ phình mạch máu não hay thường được người dân gọi tắt là vỡ mạch máu não. Trong đó, khoảng 15% người bị vỡ phình mạch máu não tử vong trước khi đến bệnh viện. Hầu hết các trường hợp tử vong là do tổn thương não vì xuất huyết não nhanh và ồ ạt. Vỡ mạch máu não có nguy hiểm không? Câu trả lời là “Có”. Bệnh vỡ phình mạch máu não có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm, thậm chí gây tử vong nếu không được cấp cứu can thiệp kịp thời. Bài viết sau sẽ phần nào giúp bạn hiểu rõ hơn về các dấu hiệu vỡ mạch máu não, nguyên nhân dẫn đến vỡ mạch máu não cũng như cách điều trị vỡ mạch máu não để có hướng phòng ngừa và can thiệp đúng, chủ động bảo vệ sức khỏe và tính mạng. Vỡ mạch máu não là gì? Các cặp động mạch cảnh và động mạch đốt sống sẽ đưa máu, oxy và chất dinh dưỡng đến não để nuôi các tế bào não. Mỗi phút có khoảng 600-700 ml máu chảy qua động mạch cảnh và các nhánh của chúng để đến não, trong khi có khoảng 100-200 ml máu chảy qua hệ thống động mạch đốt sống. Khi các mạch máu não bị tổn thương, có hiện tượng xơ vữa động mạch, chấn thương, hoặc có tổn thương vi mô của thành động mạch, xuất hiện dòng chảy bất thường ở vị trí phân chia của các động mạch,… thì mạch máu sẽ hình thành túi phình – tức là vị trí phình to bất thường trên mạch máu não ví như cao su bị mỏng trên thành ruột xe. Các túi phình này có nguy cơ bị vỡ bất cứ lúc nào nguy cơ vỡ cao hay thấp tùy thuộc vào áp lực lên túi phình và vị trí của chúng ở trong não, và dẫn đến tình trạng vỡ phình mạch máu não. Lúc này, lưu lượng máu chảy ra sẽ gây kích thích lên hoạt động não bộ, gây tăng áp lực nội sọ. 1 Không chỉ vậy, khi người bệnh bị vỡ mạch máu não, máu bắt đầu lan ra và kích thích màng não, phóng thích các sản phẩm nguy hại và làm hỏng các tế bào não. Đồng thời, khi đó sẽ xuất hiện phản xạ co mạch nơi vỡ, spasm gây thiếu máu vùng não phía sau chỗ vỡ, dẫn đến nhồi máu não. Xuất huyết dưới nhện SAH đe dọa tính mạng với 40% nguy cơ tử vong. Vỡ mạch máu não khiến các tế bào não chết hàng loạt Người bệnh vỡ mạch máu não có thể rơi vào tình trạng mất ý thức, các tế bào não và mô não chết đi hàng loạt dẫn đến yếu liệt tay chân, rối loạn ngôn ngữ, tàn phế, sống đời sống thực vật… thậm chí có thể gây tử vong. Một số thống kê cho thấy, phụ nữ và đặc biệt là những người trên 55 tuổi sẽ có nguy cơ bị vỡ mạch máu não cao hơn nam giới đến 1,5 lần. Dấu hiệu vỡ mạch máu não Để nhận biết trường hợp người bệnh bị vỡ phình mạch máu não, có thể dựa vào các dấu hiệu sau đây 2 Cơn đau đầu xuất hiện đột ngột và dữ dội, không thuyên giảm dù có sử dụng thuốc giảm đau. Xuất hiện hiện tượng tay chân co giật Yếu liệt tứ chi, thậm chí liệt nửa người Tê bì chân tay Cứng cổ và gáy Buồn nôn, ói mửa Thị lực suy giảm, mắt nhạy cảm hơn với ánh sáng, có hiện tượng nhìn mờ hoặc nhìn đôi Nói khó, rối loạn ngôn ngữ Khó nuốt Choáng váng, chóng mặt và mất thăng bằng Mất ý thức, lú lẫn, hôn mê Tử vong Các triệu chứng vỡ mạch máu não gần như tương tự với triệu chứng của một người bệnh bị đột quỵ bởi vỡ mạch máu não là một trong những nguyên nhân gây nên đột quỵ. Người bị vỡ phình mạch máu não có thể có những cơn đau đầu đột ngột và dữ dội Nguyên nhân dẫn đến vỡ mạch máu não Các túi phình ở động mạch và mạch máu bị mỏng, yếu đi và phình to rồi vỡ ra là nguyên nhân dẫn đến vỡ mạch máu não. Trước đây, người ta cho rằng vỡ phình mạch máu não là do di truyền. Tuy nhiên, ngày nay dựa trên các ca bệnh lâm sàng và những nghiên cứu từng thực hiện, có thể thấy tình trạng túi phình bị vỡ xuất phát do sự tác động của một số yếu tố như 3 Tăng huyết áp Tình trạng huyết áp tăng cao, đặc biệt là khi tăng đột ngột sẽ tác động lên túi phình động mạch khiến chúng vỡ ra. Những người ăn nhiều muối, bị rối loạn lipid máu, thường xuyên căng thẳng lo âu, thức khuya, ngủ không đủ giấc,… thường sẽ có nguy cơ bị vỡ phình mạch máu não cao hơn. Do phình mạch máu não Trường hợp phình mạch máu não khiến túi phình to hơn, mỏng, yếu, khả năng đàn hồi và chịu áp lực kém nên tự vỡ ra, dẫn đến vỡ mạch máu não đe dọa tính mạng người bệnh. Dị dạng mạch máu bẩm sinh Vỡ mạch máu não có thể xuất hiện ở trẻ em bị dị dạng mạch máu não bẩm sinh, có bất thường ở các vị trí nối giữa tĩnh mạch và động mạch não. Do mắc bệnh mạch máu Người bệnh sử dụng các loại thuốc chống đông máu, thuốc điều trị u não,… hoặc các bệnh lý mạch máu khác có thể có nguy cơ bị vỡ mạch máu não cao hơn. Ngoài ra, những người mắc tiền sử bệnh mạch máu não thoái hóa dạng bột hoặc xuất huyết não cũng dễ bị bệnh vỡ mạch máu não hơn. Các nguyên nhân khác Bên cạnh những nguyên nhân kể trên, còn nhiều yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ vỡ mạch máu não bao gồm thói quen ăn uống kém lành mạnh, sử dụng chất kích thích, sự thay đổi bất thường của thời tiết,… Vỡ mạch máu não có nguy hiểm không? Theo Brain Aneurysm Foundation Hiệp hội Phình mạch máu não Hoa Kỳ, có đến khoảng 50% trường hợp vỡ phình mạch máu não tử vong. Những trường hợp sống sót cũng gặp các biến chứng nặng nề. Trong đó, 66% người sống qua cơn vỡ phình mạch máu não nguy kịch bị tổn thương hệ thần kinh vĩnh viễn. 4 Các biến chứng mà bệnh nhân bị vỡ mạch máu não có thể phải đối diện bao gồm cả biến chứng Mất ngôn ngữ, nói ngọng, gặp khó khăn trong giao tiếp Liệt tay, chân hoặc hết tứ chi, liệt nửa người Co cứng cơ, khó cử động tay chân Mất khả năng vận động Rối loạn nuốt Xẹp phổi, viêm phổi Nhiễm trùng đường tiết niệu Lo lắng, căng thẳng quá mức, trầm cảm… Trường hợp nặng sẽ dẫn đến tử vong hoặc sống thực vật Vỡ mạch máu não để lại những biến chứng nặng nề cho người bệnh Cách chẩn đoán bệnh vỡ mạch máu não Để chẩn đoán bệnh vỡ phình mạch máu não cũng như tiên lượng bệnh, cần dựa vào tình trạng sức khỏe người bệnh, các dấu hiệu lâm sàng, vị trí túi phòng, tình trạng chảy máu,… Qua đó bác sĩ có thể biết được có còn điều trị kịp hay không và nếu còn có thể điều trị thì nên lựa chọn biện pháp điều trị vỡ mạch máu não phù hợp. Thăm khám lâm sàng Để có thể chẩn đoán bệnh vỡ phình mạch máu não, bác sĩ sẽ dựa vào bệnh sử của người bệnh cũng như các triệu chứng lâm sàng khởi phát để chẩn đoán khả năng người bệnh bị vỡ mạch máu não. Bác sĩ có thể tiến hành kiểm tra, đánh giá các triệu chứng xem người bệnh có bị méo miệng, nói đớ, yếu liệt tay chân, suy giảm thị lực, đau đầu dữ dội,… hay không. Ngoài ra, bác sĩ cũng sẽ thực hiện thăm khám và hỏi về tiền sử bệnh của người được đưa vào cấp cứu cũng như các loại thuốc mà người bệnh đang sử dụng, tiền sử bệnh gia đình,… Các biện pháp xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh Chẩn đoán hình ảnh là phương pháp có tính ứng dụng và hiệu quả cao trong việc chẩn đoán các trường hợp bị vỡ mạch máu não. Theo đó, người bệnh có thể được chỉ định chụp cắt lớp vi tính CT, chụp cộng hưởng từ MRI, chụp mạch máu não CTA, DSA hoặc chọc dò tuỷ sống, xét nghiệm máu,… 5 Chụp CT Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn này giúp nhanh chóng phát hiện được các khối máu tụ trong nhu mô não hoặc các khoang màng não. Nhờ đó bác sĩ có thể đánh giá được người bệnh có bị vỡ phình mạch máu não hay không. Ngoài ra, kết quả chụp CT não cũng giúp đánh giá các cấu trúc giải phẫu bên trong não để tìm hướng điều trị phù hợp cho người bệnh bị vỡ mạch máu não. Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh sở hữu máy CT 768 lát cắt hiện đại bậc nhất, hỗ trợ tích cực cho việc chẩn đoán này. Chụp CTA Chụp mạch máu não là phương pháp chẩn đoán giúp phát hiện ra các mạch máu bị phình vỡ hoặc đánh giá tình trạng xơ vữa động mạch. Chụp MRI Chụp MRI có thể kiểm tra chi tiết các nhu mô não và đánh giá tình trạng các mạch máu trên não để biết người bệnh có bị vỡ mạch máu não hay không, cũng như mức độ nghiêm trọng của bệnh. Hiện tại, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh sở hữu máy MRI 3 Tesla là thế hệ mới nhất, hiện đại nhất, hỗ trợ tích cực cho việc chẩn đoán này. Chọc dò tủy sống Chọc dò tủy sống sẽ cho kết quả xem trong dịch não tủy có lẫn với máu hay không, từ đó cân nhắc đánh giá việc vỡ phình mạch máu não hoặc xuất huyết màng não. Chọc dò não tủy giúp phát hiện dịch não tủy có lẫn máu hay không Cách điều trị bệnh vỡ mạch máu não Vỡ phình mạch máu não là một bệnh lý thần kinh có nguy cơ tử vong cao. Do đó, việc tiên lượng bệnh và điều trị cấp cứu càng sớm sẽ càng giảm thiểu các biến chứng và tỷ lệ tử vong do các tế bào não bị tổn thương, giúp nâng cao hiệu quả điều trị và tăng khả năng phục hồi. Mục tiêu điều trị vỡ phình mạch máu não là sửa chữa mạch máu bị vỡ và hậu quả chảy máu để cứu sống người bệnh, ngăn ngừa và giảm thiểu tối đa các biến chứng có thể xảy ra. Hiện nay, hai phương pháp chính để cấp cứu điều trị cho người bệnh bị vỡ mạch máu não chính là can thiệp nội mạch và vi phẫu thuật. Bên cạnh đó, cũng cần điều trị nội khoa trong các ca bệnh vỡ mạch máu não để giúp bệnh nhân ổn định tình trạng sức khỏe, điều trị các biến chứng và hạn chế tối đa các biến chứng kéo dài. Điều trị bằng thuốc Điều trị bằng thuốc thường được kết hợp trước và sau với các phương pháp phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch. Người bệnh sẽ được sử dụng thuốc giảm đau để có thể giảm các triệu chứng đau đầu khi bị vỡ mạch máu não. Ngoài ra, để hạn chế tình trạng chảy máu nghiêm trọng cũng như giúp kiểm soát áp lực nội sọ, bác sĩ sẽ cho người bệnh sử dụng thuốc kiểm soát huyết áp trước khi thực hiện phẫu thuật. Nếu người bệnh có tiền sử động kinh hoặc có nguy cơ co giật thì có thể cần sử dụng thêm thuốc chống động kinh. Phẫu thuật Với các trường hợp vỡ mạch máu não, nên cần được phẫu thuật càng sớm càng tốt. Thời gian tốt nhất là trước 24 giờ kể từ thời điểm vỡ phình mạch máu não và trễ nhất là trong vòng 72 giờ. Bác sĩ sẽ dựa vào tình trạng vỡ mạch máu não và xuất huyết não hiện tại, tuổi tác của người bệnh, tiên lượng tình trạng sức khỏe và khả năng phục hồi để chỉ định phương pháp phẫu thuật phù hợp. Các phương pháp phẫu thuật điều trị vỡ mạch máu não bao gồm Phẫu thuật mở hộp sọ Kỹ thuật này được thực hiện bằng cách cắt xương sọ nhằm tạo một lỗ nhỏ trên hộp sọ. Sử dụng kính vi phẫu, xác định được vị trí mạch máu bị vỡ và dùng kẹp titan gắn vào cổ túi phình, loại bỏ túi phình ra khỏi dòng chảy của máu, giúp máu không chảy vào túi phình nữa mà có thể lưu thông trong lòng mạch bình thường. Kẹp titan được cố định trong não bệnh nhân suốt đời và không được lấy ra. Đặc biệt, kỹ thuật mổ não hiện đại nhất hiện nay là ứng dụng robot Modus V Synaptive. Lần đầu tiên được cấp phép tại Việt Nam, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh sở hữu robot mổ não hiện đại bậc nhất này, kết hợp với kỹ thuật chụp MRI bó sợi thần kinh DTI, cho phép bác sĩ nhìn thấy được hình ảnh các bó dẫn truyền thần kinh tương quan với vùng não bị xuất huyết hoặc tổn thương. Theo đó, từ cuộc mổ mô phỏng bằng Robot, phẫu thuật viên sẽ tránh phạm phải các bó dẫn truyền thần kinh trong lúc phẫu thuật, bảo tồn được các bó sợi thần kinh và các mô não lành, tránh được các biến chứng thần kinh trong và sau phẫu thuật. Bắc cầu động mạch não Với phương pháp bắc cầu động mạch não, bác sĩ lấy một đoạn mạch nhỏ trong cơ thể người bệnh thường lấy mạch từ dưới chân hoặc động mạch thái dương để nối tắt qua động mạch đã vỡ, từ đó tạo đường đi mới cho máu. Biện pháp mở hộp sọ để làm tắc hoàn toàn dòng chảy động mạch và túi phình rồi bắc cầu động mạch não sẽ được thực hiện trong trường hợp động mạch vỡ tổn thương nghiêm trọng hoặc túi phình động mạch lớn, không thể tiếp cận được. Can thiệp mạch não Người bệnh khi bị vỡ mạch máu não có thể được can thiệp mạch bằng cách Nút coil Bác sĩ sẽ thực hiện đưa ống thông vào động mạch ở bẹn và đi vào các mạch máu trong não tới vị trí mạch máu bị vỡ. Thông qua đó, các cuộn dây bạch kim sẽ được đưa vào để lấp đầy túi phình. Khi túi phình lấp đầy, dòng chảy sẽ giảm thấp dần và xuất hiện cục máu đông và bít kín túi phình. Đặt stent mạch não Một kỹ thuật điều trị vỡ mạch máu não khác chính là đặt stent trong lòng mạch máu, tạo giá đỡ trong lòng mạch, bít tắc túi phình mạch, nắn dòng chảy trong lòng mạch não. Bên cạnh đó, bác sĩ có thể sẽ cho người bệnh tiêm thuốc làm giãn mạch máu co thắt để dự phòng co thắt mạch. Tỷ lệ người bệnh bị co thắt mạch sau khi vỡ mạch máu não lên đến 70%. Do đó, để hạn chế tình trạng người bệnh bị buồn ngủ, lú lẫn, yếu nửa người,… khi bị co thắt mạch máu thì bác sĩ sẽ chủ động tiêm thuốc giãn mạch máu từ sớm. Tùy theo tình trạng sức khỏe người bệnh, vị trí mạch máu bị vỡ, kích thước túi phình bị vỡ và điều kiện của cơ sở y tế mà bác sĩ có thể cân nhắc lựa chọn phương pháp điều trị vỡ mạch máu não phù hợp. Thời gian điều trị còn tùy vào khả năng phục hồi của người bệnh nhưng thông thường, từ 10 đến 14 ngày đầu tiên thì người bệnh sẽ phải nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt để bác sĩ có thể theo dõi sát sao triệu chứng và can thiệp kịp thời nếu có bất thường xảy ra. Tùy trường hợp mà bác sĩ cân nhắc lựa chọn phương pháp can thiệp vỡ mạch máu não phù hợp Cách phòng ngừa vỡ mạch máu não Để phòng ngừa vỡ mạch máu não dẫn đến đột quỵ, có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa như Thường xuyên tập thể dục, ít nhất 2-3 lần/tuần với mỗi lần tối thiểu 30 phút. Duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế ăn mặn, thức ăn có chứa chất béo bão hòa và cholesterol. Ăn nhiều rau và trái cây. Không hút thuốc, hạn chế uống rượu bia. Duy trì huyết áp ở mức ổn định. Nghỉ ngơi hợp lý, ngủ đủ 7-8 tiếng mỗi ngày, tránh căng thẳng quá mức. Chủ động thăm khám, tầm soát bệnh lý thần kinh. Câu hỏi thường gặp khi phình mạch máu não bị vỡ Vỡ mạch máu não có cứu hoặc chữa được không? Người bệnh bị vỡ phình mạch máu não nếu được cấp cứu kịp thời và có phương pháp điều trị phù hợp có thể hạn chế tối đa biến chứng và tăng cao khả năng điều trị thành công. Do đó, các trường hợp vỡ mạch máu não nên được đưa đi cấp cứu can thiệp càng sớm càng tốt. Vỡ mạch máu não sống được bao lâu? Bệnh nhân bị vỡ phình mạch máu não có thể sống được bao lâu còn phụ thuộc vào việc người bệnh có được cấp cứu kịp thời hay không, mức độ tổn thương não nặng hay nhẹ, thể trạng người bệnh, chế độ dinh dưỡng, người bệnh có được chăm sóc đúng cách hay không,… Theo đó, nếu người bệnh được cấp cứu trong thời gian vàng thì thời gian khả năng sống và phục hồi cao hơn. Ngoài ra, với người bệnh có mức độ tổn thương não nhẹ thì thời gian sống lâu hơn. Đặc biệt, một yếu tố quan trọng để người bệnh kéo dài thời gian sống chính là giữ tinh thần lạc quan, tích cực phối hợp điều trị bệnh. Vỡ mạch máu não bao lâu mới hồi phục? Thời gian hồi phục với người bệnh bị vỡ mạch máu não cũng tùy thuộc vào việc não tổn thương ở mức độ nào, thời gian được cấp cứu cũng như việc người bệnh có được điều trị bằng các phương pháp phù hợp hay không. Sau khi được điều trị, người bị vỡ mạch máu não có thể mất từ 3 tháng đến vài năm để phục hồi sức khỏe và điều trị hoàn toàn các biến chứng có thể xảy ra. Khi nào cần gặp bác sĩ? Ngay khi có các dấu hiệu vỡ mạch máu não đầu tiên thì người bệnh nên đến gặp bác sĩ để thực hiện thăm khám, chẩn đoán xác định tình trạng sức khỏe và có phương pháp điều trị, can thiệp kịp thời. Để đặt lịch thăm khám, tư vấn các vấn đề về sức khỏe tại Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Quý khách vui lòng liên hệ Vỡ mạch máu não là một tình trạng nguy hiểm với tính mạng. Không nên chủ quan mà cần chủ động tầm soát định kỳ, thực hiện các biện pháp phòng ngừa cũng như đến bệnh viện ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên.

co thắt mạch máu não