Truyện Ma Thành Viên. Chuyện xảy ra khi tôi và thằng Sâm em tôi ra Bình Thuận để gặp cô vợ sắp cưới tên Dung vài năm về trước. 2 a e tôi thuê nhà nghỉ gần biển. Vào khoảng 3h sáng tôi tỉnh dậy, 2 mắt bỗng dưng nhức, người cồn cào như có tiếng ai gọi thì nhìn sang bên Kỳ 1: Thuận Kiều Plaza- Những câu chuyện nhuốm màu dị đoan. (CATP) Gần hai chục năm qua, những đồn thổi đầy ma mị về sự thất bại của khu cao ốc liên hợp gia cư và thương mại Thuận Kiều (Thuận Kiều Plaza) cứ chồng chất theo thời gian. Những câu chuyện về oan hồn NHÀ MA TẬP 1 | HỒN VỀ BÊN MẸ - CHUYỆN MA TÂM LINH CÓ THẬT | FULL 4K#nhama, #chuyentamlinh, #chuyenma----- Vén màn bí mật về lời đồn ma ám tại Thuận Kiều Plaza. Khi hàng loạt tin đồn về bùa ngải, quỷ ám và những câu chuyện về những “bóng ma” xuất hiện trong TTTM Thuận Kiều Plaza bỏ hoang này càng khiến nhiều người ghê rợn. Thuận Kiều Plaza, một công trình đồ sộ với Thực tế, những câu chuyện ma tại Thuận kiều plaza vẫn chỉ dừng lại ở việc đồn đoán, truyền từ người này sang người khác. Đến nay, vẫn chưa có ai thật sự kiểm chứng được những lời đồn đoán này và cứ chìm trong những câu chuyện u mê và hoang đường. 3. Những PZk7. Thuở nhỏ, tôi vẫn thường hay nghe người lớn truyền nhau câu “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” mỗi dịp trà dư tửu hậu. - Ối chà! Đã nói tới cọp, tới ma thì ai lại không biết hai tỉnh Khánh Hòa với Bình Thuận là cái ổ! Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận có tiếng mà! Họ thi nhau kể rất nhiều chuyện về cọp ở Khánh Hòa và đủ thứ chuyện ma ở Bình Thuận. Chuyện nào cũng thật ly kỳ hấp dẫn. Bình Thuận, nghe nói ở đâu xa lắm, ở cái tuổi lên bảy, lên tám, tôi không hình dung được cái xứ sở đó ở đâu và tại sao lại có nhiều ma. Chứ còn cọp Khánh Hòa của xứ tôi thì… Theo sách vở xưa, Khánh Hòa có câu vè dân gian ghi lại những địa danh và đặc điểm từng nơi theo tương truyền xưa kia Mây Hòn Hèo Heo Đất Đỏ Mưa Đồng Cọ Gió Tú Hoa Cọp Ổ Gà Ma Đồng Lớn Ổ Gà nằm về phía bắc thị trấn Ninh Hòa, phía tây đèo Bánh Ít. Núi không cao nhưng cây cối rậm rạp. Chổ nào có rừng là có cọp. Nhưng cọp ở Ổ Gà nhiều hơn các nơi rừng núi trong tỉnh. Tương truyền có lúc cọp ở Ổ Gà kéo ra đường cả đàn. Câu tục ngữ “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” là từ chổ này mà ra. Chuyện xa xưa như thế nào thì không rõ lắm, nhưng cái Xóm Cồn, nơi chôn nhau cắt rún của tôi, lúc ban sơ chỉ là một bãi cát hoang vắng, mọc um tùm đầy những cây bần, cây đước, lau sậy, dần dà được hình thành, thành xóm, thành làng thì có lắm chuyện về cọp từ phía Hố Dâu bơi qua sông Cái, vào làng bắt súc vật, dân làng bao phen chống trả ra sao, được ông già, bà lão thuở xưa đến đây khai hoang lập nghiệp, kể đi kể lại cho con cháu đời sau nghe là chuyện có thật. Chỉ ra đứng đàng sau hè nhà, cạnh bờ sông Cái, nhìn qua cầu Xóm Bóng, Tháp Bà, phía bên kia bờ sông rộng, những ngọn tháp đen sì, sừng sững mang đầy vẻ âm u, huyền bí là một vùng núi rừng chập chùng, trùng điệp. Ở đó, trong trí tưởng của tôi, là cả một giang sơn của cọp. Sau lưng Tháp Bà là Hố Dâu, một địa danh nghe vừa sờ sợ lại vừa kích thích trì tò mò, thám hiểm của tuổi ấu thơ. Ở Hố Dâu không có nhà cửa hay ruộng vườn chi cả, chỉ có duy nhất một ngôi chùa, gọi là chùa ông Bửu, một ngôi chùa nhỏ, cô độc, lưng dựa vào núi, mặt ngó ra bờ sông. Chùa vắng vẻ, hiu quạnh, vào ra có mỗi một vị sư già trụ trì. Pháp danh của sư cụ là gì tôi không biết, cũng không nghe ai nhắc tới. Chỉ nghe cậu Ba tôi khi đến thăm, đều thưa là ông Bửu. Đó là vào dịp mỗi cuối năm. Vào ngày 23 hoặc trễ lắm là 25 tháng chạp Âm Lịch, cậu Ba, con cả của ông bà ngoại tôi, lại dẫn anh em chúng tôi, một lô con cháu, nội, ngoại của đại gia đình họ Trần, hơn cả chục đứa với các cậu Sáu, dì Năm, mợ Tám… đi bằng ghe qua Hố Dâu để “dãy mả”. “Dãy mả” là tục tảo mộ hàng năm của một số gia đình ở Nha Trang, giống như sơn quét nhà cửa cho khang trang, mới mẻ để mời ông, bà về ăn Tết với con cháu. Ở Ninh Hoà – Hòn Khói quê nội tôi, thì tục lệ tảo mộ được cử hành vào tiết Thanh Minh, tháng ba Âm Lịch. Thanh Minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Mỗi lần ghe cặp bến trước chùa, cậu Ba tôi đều ghé vào chùa thăm sư ông trước và không quên “kỉnh” chút ít tiền, đôi gói trà, chai rượu, bó nhang đèn cúng Phật để gọi là tạ ơn sư ông đã “ngó chừng” dùm nghĩa địa của gia tộc tôi, ngăn bọn trẻ chăn trâu phá phách rồi mới dẫn chúng tôi đi vào nghĩa địa. Cậu tôi bảo, đất đai ở Hố Dâu là do ông Bửu khai phá để lập chùa. Hồi trước ở đây là bãi hoang, nhiều cọp, beo lắm. Ông Bửu có công đã xua đuổi chúng đi vào núi cao, rừng sâu để ở, không cho bơi qua sông, vào tận làng để bắt heo, dê đang nuôi trong chuồng, cõng trên lưng, bơi về lại hang ổ trong núi Hố Dâu để ăn thịt. Nhìn ông Bửu, một vị sư già, gầy khẳng khiu trong bộ nâu sòng rộng thùng thình, nhưng tinh thần rất tráng kiện với đôi mắt sáng tinh anh, tôi cứ liên tưởng đến các nhân vật thần tiên, thần thông quãng đại trong truyện “Bát tiên quá hải” mà tôi được đọc ké sách của Má tôi mỗi khi bà “nằm nơi”, rồi bất giác đem lòng kính phục, ngưỡng mộ. Nhưng lúc ấy, chúng tôi chỉ là lũ bé con đứng thập thò ngoài cửa chùa nhìn nhón vào chứ đâu dám bước vào trong. Vì thế suốt cả quảng thời gian thơ ấu, chúng tôi chưa bao giờ được có cơ hội nắm tay ông để tỏ lòng kính trọng và chiêm ngưỡng hay để được cái ân huệ ông xoa đầu, vuốt tóc. Tuy thế, hình ảnh của ông Bửu mang dáng vẻ một tiên phong đạo cốt vẫn là dấu ấn đậm nét thần tiên trong lòng tôi, một đứa bé nhiều mộng mơ và tưởng tượng, rất nhiều năm sau này. Nhiều gia đình ở Nha Trang đến mua đất của ông Bửu để xây nghĩa địa gia tộc vì địa thế ở đây không xa thành phố bao nhiêu mà khung cảnh lại u trầm, tĩnh mịch, cách biệt hẵn với cái ồn ào náo nhiệt của thế tục. Bên cạnh nghĩa địa của gia tộc tôi còn có mấy cái khác nữa, nằm rãi rác, xa xa, nên đến ngày cuối năm đi “dãy mả”, khu rừng hoang vắng, hiu quạnh quanh năm ở chùa ông Bửu, Hố Dâu bỗng trở nên rộn rịp, ríu rít với tiếng cười, tiếng nói, tiếng ơi ới của bọn trẻ con, trai gái mấy chục đứa gọi nhau, làm huyên náo cả một góc núi rừng. Như đã nói trên, cái tên Hố Dâu nghe có vẻ vừa sờ sợ lại vừa kích thích trí tò mò thám hiểm của tuổi ấu thơ, bởi mỗi khi chiều xuống chạng vạng, bóng tối nhập nhòa, nhất là những ngày mưa gió tơi bời, đứng sau hè nhà nhìn về phía Hố Dâu, tôi cứ có cảm giác rờn rợn, sợ hãi trong lòng khi tưởng tượng ra một mình đang lạc đường trong chốn ấy, không tìm được lối ra. Còn kích thích sự tò mò, thám hiểm là chính cái ngày đi tảo mộ. Tiếng là đi theo để phụ giúp người lớn trong việc nhổ cỏ, phát quang các lùm cây dại, dây leo ngoài hàng rào, mọc um tùm, dầy ken, tràn lan vào phía trong mấy chục cái mộ nằm thành bốn hàng ngay ngắn. Bưng, gánh đất mới đắp trên mộ cũ cho sạch sẽ và cao thêm vì bị mưa lũ cả năm xói mòn…Làm thì ít, nhưng len lén trốn rồi kéo nhau len lỏi khắp nơi trong núi để hái trái rừng như dủ dẻ, ma dương, chim chim, cò ke… để ăn một cách rất ngon lành, thú vị thì nhiều hơn. Công việc chính của “dãy mả” rốt cục là của các cậu, mợ, dì lớn tuổi lo chu tất. Mỗi lần như thế cậu Ba tôi cứ hăm he – Tụi bây cứ lo chơi, không lo giúp làm cho mau xong, để nắng lên trưa trờ, trưa trật mệt chết! Sang năm không cho đi theo đi nữa! Nhưng rồi năm nào chúng tôi cũng nằn nì xin cha mẹ cho đi theo với lời hứa ngon lành – Lần này tụi con “dãy mả” xong rồi mới đi hái trái rừng. Cái háo hức được ngồi ghe từ tờ mờ sáng, lắng tai nghe tiếng mái chèo khoắng nước róc rách, tiếng ghe lướt đi nhè nhẹ trong làn hơi nưóc bốc lên mờ mịt trên mặt sông, cảnh như tranh vẻ cứ lẩn quẩn trong tâm trí tôi suốt đêm, không thể nào nhắm mắt ngủ được. Cứ trông cho trời mau sáng. Đến khi được ngồi trên ghe rồi thì hai con mắt cứ riu ríu muốn ngủ gà, ngủ gật. Cái thú được đi “dãy mả” cuối năm để được tung tăng thám hiểm trên núi hái trái rừng vừa sợ vừa ham thích của tôi cứ tiếp tục một cách thú vị và hào hứng như thế suốt thời gian từ tiểu học lên đến trung học mới chấm dứt. Nhiều năm sau đó tôi phải rời Nha Trang để đi học xa, rồi đi làm xa, nhưng những ngày cuối tháng chạp, gần tết, những ngày gió bấc lành lạnh thổi leo pheo từng cơn, không về quê được, những kỷ niệm đi “dãy mả” cứ gợi nhớ man mác trong lòng. Công việc “dãy mả” chừng khoảng chín, mười giờ sáng là hoàn tất. Cả khuôn viên nghĩa địa như sáng hẵn lên. Cỏ dại, dây leo um tùm lúc nãy, giờ đây đã được dọn sạch sẽ. Cậu tôi cho bày lễ vật cúng ra gồm nhang, đèn, hoa quả, bánh trái trải trên một tấm vải nhựa. Chúng tôi xúm vào đốt nhang, đèn, rót rượu trắng ra mấy chiếc ly. Cậu Ba bắt đầu trịnh trọng khấn vái nho nhỏ một hồi. Sau đó cậu đưa cả bó nhang lớn đang nghi ngút khói cho chúng tôi, chia nhau mỗi đứa một nắm, tản ra cắm trên các mộ. Còn dư, cắm sang các mộ khác của nghĩa địa bên cạnh. Cậu tôi bảo đó là đi chào hỏi hàng xóm, láng giềng thay cho ông bà. Sau rốt là đốt vàng mả. Nhìn những ngôi mồ vừa được đắp đất mới, bên trên cắm mấy nén nhang đang tỏa khói lảng đảng trên không, tôi có cảm nghĩ giống như căn nhà đang mở cửa đón Tết. Mùi thơm hương nhang, mùi đất mới ngai ngái, mùi cỏ cây vừa bị phát quang hăng hắc, quyện vào với nhau, tạo nên một mùi vị rất đặc biệt không biết gọi là mùi gì. Sau này xa nhà, nhớ về làng xóm cũ, mới nghiệm ra đó là mùi quê hương, đất tổ. Có đi xa, tình yêu quê hương mới thấy đậm đà, mới nhớ lại để nhớ, để thương hung. Chốc chốc, có tiếng chim cu gù “cúc cù ru…u…ù” lúc xa, lúc gần, rất lẻ loi, vọng lại trong sự yên ắng, tĩnh mịch của núi rừng nghe cứ nao nao, buồn buồn trong bụng. Đến lúc má tôi và các dì, mợ bày thức ăn ra để cả nhà ăn sáng, cũng vừa lúc chúng tôi đang đói bụng dữ vì cả buổi sáng leo trèo, nhảy nhót quá nhiều. Trong lúc ăn, các cậu, dì và cả má tôi nữa, thay nhau nhẫn nha nhắc lại những công ơn hoặc kỷ niệm về ông bà cố, ông bà nội, ngoại, chú, bác… những họ hàng, quyến thuộc đang yên nghĩ nơi đây. Mỗi lần như thế các người đều không quên chỉ vào từng ngôi mả nhắc nhở cho đám con cháu nhớ kỹ mả đó là của ai, người nào… để khi tiếp nối công việc thiêng liêng này mà cúng vái cho đúng tên tuổi, thứ bậc. Và sau cùng vẫn luôn là những câu chuyện truyền khẩu về ông Ba mươi, Chúa sơn lâm, cái thuở còn hống hách, tung hoành ngang dọc tại Hố Dâu, sau lưng chùa ông Bửu này. Những chuyện kể đó đã được kể đi, kể lại bao nhiêu năm rồi, nhưng chúng tôi lần nào cũng cứ há hốc miệng ra vừa nghe, vừa sợ, vừa thích thu. Để rồi một lúc sau, không biết bằng cách nào chúng tôi ngồi sít lại gần nhau mà không hay. Nhiều chuyện ly kỳ về những ông Ba mươi ở cái Hố Dâu này lắm. Không biết hư thực ra sao, mà vẫn cứ hấp dẫn bọn trẻ chúng tôi vô cùng. Như chuyện một ông Bạch Hổ cứ đêm đêm xuống nằm phủ phục trước chùa để nghe ông Bửu đọc kinh, mãi đến tảng sáng mới chịu lui vô núi. Như chuyện ông cọp ba móng thù dai cứ rình rập sau Tháp Bà để chực trả thù kẻ đánh bẫy làm ông gẫy mất một chân, làm cho người đi hái củi trong núi cứ thấp thỏm lo sợ đề phòng. Rồi chuyện Thần hổ, mỗi khi trăng rằm thì hiện thân thành người, một ông già râu tóc trắng như cước, ngồi dưới gốc cây xem xét cuốn sổ ghi tên họ những ai có số bị cọp ăn, lúc nào, tháng nào trong năm, để ông sai phái đệ tử đi làm nhiệm vụ cho đúng qui định. Lại còn có chuyện cọp lầm, vồ không đúng người có số cọp ăn, sẽ bị trừng phạt nặng nề. Chuyện cọp bị trời hạn chế việc lạm sát, giết hại bừa bãi loài người, bằng cách không cho xương cổ được cử động nghiêng qua, ngó lại, ngoái lui như người để khó khăn trong việc vồ mồi. Chuyện lỗ tai cọp khi đi va quẹt vào lá là quên tuốt hết các việc vừa xãy ra trong quá khứ để khỏi nhớ dai. Nhưng chuyện đánh cọp sau đây là chuyện có thực do ông ngoại tôi kể lại. Người đánh nhau với cọp không ai khác hơn là ông Hồ không phải lão Minh râu đâu người phụ việc đóng ghe cho ông ngoại tôi. Lúc được nghe câu chuyện này, tôi đã hơn mười tuổi rồi. Còn ông Hồ và ông ngoại tôi đều đã hơn bảy mươi. Ai nấy đều râu tóc bạc phơ cả. Ông tôi kể rằng, hồi xửa, hồi xưa lâu lắm rồi, từ cái thời ông Bảo Đại còn chưa sanh ra lận, đời sống của dân bốn xứ miền Trung gồm Nam, Ngãi, Bình, Phú khổ lắm. Đất thì khô cằn sỏi đá. Quanh năm cầy sâu cuốc bẩm, quần quật mà vẫn không đủ lúa gạo để ăn. Nhiều năm mất mùa phải ăn cả vỏ cây. Do đó, một số đã bỏ xứ kéo nhau lang thang vào đất Khánh Hòa để tha phương cầu thực. Và cái làng Xóm Cồn này đã là nơi đất lành chim đậu. Ban đầu họ chỉ có mấy mươi gia đình, sống quây quần với nhau trên một dãi đất thoi loi, bề ngang hẹp chỉ chừng năm chục thước, từ sau lưng Tòa Tỉnh trưởng Khánh Hòa kéo dài ra giữa nước. Bên trái là sông. Bên phải là biển. Cồn này do đất phù sa của con sông Cái chảy ra biển mà thành. Trên cồn mọc um tùm lau sậy, cây dại và bụi rậm. Phía bên kia sông là xóm Bóng, dưới chân Tháp Bà. Lúc đó Ông Tư Bác sĩ Yersin chưa xây cái lầu ba tầng ở đây để làm nơi nghiên cứu “pha học”. Khi Ông Tư đến xây “Ngù gió” Đài thiên văn thì dân làng mình đã đông tới mấy trăm nóc gia rồi. Đa phần dân làng sống bằng nghề chài lưới và chăn nuôi. Ngày ngày, người chồng dong thuyền ra khơi đánh cá, người vợ ở nhà chăm lo bầy heo đôi ba con. Hoặc có nhà nuôi đàn dê năm bảy con để lấy sữa bán cho Chà Và. Cuộc sống bắt đầu thảnh thơi, dễ thở, nhưng cái nạn cọp bên Hố Dâu lâu lâu cứ bơi qua sông, mò vào làng bắt heo, bắt dê đi mất, làm nhiều gia đình cụt hết vốn liếng. Có khi cả ban ngày, đói quá, cọp cũng cả gan bơi lỏm ngỏm trên sông qua làng. Dân làng phải gõ chuông, đánh mỏ, đập phèn la, hò hét rầm rĩ để xua đuổi ông mãnh. Phần phập phồng sợ, phần lo mất của, dân làng đã mấy lần báo lên tỉnh để xin giúp đỡ nhưng tỉnh đâu biết lúc nào cọp về mà cho lính canh chừng. Nạn cọp về làng là ác mộng ám ảnh người dân xóm Cồn đã kéo dài nhiều năm trong nỗi kinh hoàng. Mãi đến khi có một thanh niên người Quảng Nam, cũng trên bước đường tha phương cầu thực, dừng bước giang hồ tại đây đã ra tay nghĩa hiệp đánh đuổi ông Ba mươi, dân xóm Cồn mới được an cư lạc nghiệp. Trận thư hùng giữa người và cọp thường được ông già, bà lão trong xóm, sau này kể lại cho con cháu nghe. Mỗi người kể một kiểu theo cách của mình, nhưng kiểu nào, cách nào cũng đầy gây cấn, sôi nổi, và không khỏi có thêm ít nhiều gia vị mắm muối tăng theo sự ngưỡng mộ, cảm tình của mình đối với chàng thanh niên can trường lúc ấy. Nhưng ông ngoại tôi cùng là dân Quãng Nam nhập cư vô cái xóm này từ khởi thủy, trong mình cũng có ít nhiều võ nghệ phòng thân, kể theo con mắt của người có nghề võ nên nghe có vẻ thật hơn. Ông kể Một ngày kia ông Ba mươi về làng giữa ban ngày để bắt heo. Mới sớm bửng, trời còn mờ tối, sương mù chưa tan hẵn trên sông, dân làng đã thấy ông mãnh đang từ bên Hố Dâu bơi qua quá nửa sông rồi. Họ xúm nhau hò hét, la ó, đánh mõ, dộng chuông, thúc trống chầu, gõ mâm đồng rầm rĩ để xua đuổi. Hình như ông mãnh đói quá nên chẳng biết sợ là gì, cứ từ từ bì bõm bơi vào bờ. Trong lúc mọi người hoảng hốt chạy tán loạn vào nhà để trốn thì chàng thanh niên tên Hồ, vừa mới đến nửa tháng trước, đang phụ việc cho ông ngoại tôi đóng ghe ở gần đó, xông đến đánh nhau với cọp. Hai bên quần nhau, cọp chờn vờn nhảy tới vồ, người lanh lẹ tài tình né tránh. Một lúc lâu, cọp vẫn không chụp được người nên gầm lên từng hồi giận dữ. Dân làng nghe tiếng cọp gầm ai nấy đều ù tai, xanh mặt. Lại càng thêm lo sợ cho chàng thanh niên, không biết có đánh nỗi cọp không? Hay là… Họ sợ không dám nghĩ tiếp. Riêng ông ngoại tôi núp trong chiếc ghe đang đóng dang dở để theo dõi thì thấy “bộ ngựa” của chàng thanh niên tiến thoái, xoay ngang, trở dọc rất nhẹ nhàng, vững chắc, không rối loạn. Thân hình uyển chuyển, nhanh nhẹn như con sóc, lòn mình né tránh những cú vồ của cọp một cách dễ dàng. Chàng tỏ ra gan dạ và bình tĩnh lắm. Nhất là cặp mắt chàng lúc ấy sáng quắc, luôn chiếu thẳng vào mắt cọp không hở một giây phút nào. Ông ngoại tôi biết chàng thanh niên chỉ dùng trí, khôn khéo lừa miếng, kéo dài thời gian làm cho cọp mệt chứ không dùng sức đánh trả. Sức người sao sánh bằng sức thú. Sau một cú phóng tới vồ hụt nữa của cọp, chàng thanh niên lanh lẹn lòn ra sau đít cọp, nắm được đuôi ông mãnh, rồi vận hết sức bình sanh kéo ngược xuống nước. Cọp và người quần nhau, trì kéo, cứ xoay vòng tròn. Cọp không thể quay cổ lại đàng sau được. Người cứ ở đàng sau đít, nắm chặc lấy đuôi cọp mà kéo căng ra. Cả một bãi cát sát cửa sông bị cày nát như người ta cày ruộng. Cuộc chiến dằng dai cả nửa ngày trời, mặt trời lên cao, người và cọp đều mệt lữ. Dân làng ban đầu còn lấp ló trong nhà theo dõi trận đấu, lo sợ cho chàng thanh niên lỡ miếng, dần dà thấy cọp không thắng nỗi người nên ai nấy bớt lo sợ, bước hẵn ra sân đánh trống, dộng chuông, gõ mõ, gõ ống tre, tiếp tục hò hét náo động để trợ oai. Cọp xem có mòi núng thế. Phần mệt, phần đói, cọp lui dần xuống nước tính đường rút. Chàng thanh niên cũng đà mệt lã nên sút tay khỏi đuôi cọp, vội vàng phóng lên bờ cát, ngồi thụp xuống thủ thế, mắt chiếu tướng vào mắt cọp để nghinh. Người và cọp cứ nghinh nhau như thế không chớp mắt. Ông ngoại tôi kể đến đây bảo rằng trong lúc nghinh nhau để chờ ra miếng này, ai chớp mắt là bị thua ngay. Nếu người chớp mắt một cái thì bị cọp phóng tới vồ ngay. Còn cọp chớp mắt, tức khắc bị người phóng lên lưng, ôm lấy cổ bẻ gãy hoặc phóng cước đá vào hạ bộ. Yếu huyệt của cọp là hạ bộ. Cuộc chiến diễn ra trong lặng lẽ nhưng rất căng thẳng cân não và đầy hung hiểm này tưởng chừng như vô tận thì thình lình cọp thụt lui dần xuống nước rồi quay mình bơi ra sông trở lại Hố Dâu. Lúc ấy dân làng mới ngưng hò hét, chạy ùa đến chàng thanh niên can đảm để hoan hô. Lúc ấy chàng Hồ cũng đã đuối sức lắm rồi. Mọi người công kênh chàng vào nhà để chăm sóc. Ai nấy đều hăng, hái lăn xăng, phục vụ chàng “thiếu niên anh hùng” để tỏ lòng mến mộ, kính phúc. Từ đó về sau ông mãnh đi nơi khác kiếm ăn chớ không dám quay đầu lại làng Xóm Cồn một lần nào nữa. Dân làng lại sống cuộc đời vui vẻ thảnh thơi như xưa. Trong giờ giải lao, lúc ngồi tại “xưởng” đóng ghe trên bãi biển, do tò mò thôi thúc, tôi nằn nì ông ngoại kể lại chuyện ông Hồ đánh cọp đầu đuôi ra sao. Ông ngoại tôi chìu lòng thằng cháu ham nghe chuyện cổ tích hơn ham đi bắn bi, đánh đáo cùng bọn trẻ, đã vui vẻ, vừa hút thuốc phì phà, vừa nhẩn nha kể lại truyện xưa. Tôi ngồi nghe, vừa ngắm ông Hồ cũng đang ngồi uống nước trà vối, hút thuốc lá quấn sâu kèn to như ngón chân cái, cạnh đó, mắt mông lung nhìn ra biển. Trước mắt tôi ông Hồ, một ông già tuổi gần bảy mươi, thân hình ốm gầy, hình như bên trong chỉ có gân và xương được bao bọc bởi lớp da lùng nhùng bên ngoài. Lớp da này tôi thường nắm lấy ở cánh tay ông, giật giật, qua lại, lui tới để nghịch chơi một cách rất thích thú. Mỗi lần như thế ông Hồ lại nhe hai cái lợi không còn cái răng nào, cười hiền với tôi. Ý ông thầm bảo thằng chó con này nghịch ngợm quá. Đến lúc ông ngoại tôi kể tới đoạn ông Hồ nắm đuôi cọp ra sức trì kéo xuống sông, tôi cứ tưởng tượng ra cảnh tượng ông Hồ là Võ Tòng trong truyện Thủy Hử, đánh chết cọp trong núi một cách oai dũng, bởi tôi liên tưởng tới hai cánh tay tuy rất gầy với lớp da nhăn nheo bên ngoài lại tiềm ẩn một sức mạnh vô cùng của ông Hồ, mỗi khi ông vận sức xoắn hai sợi dây thừng bằng xơ dừa, to bằng cườm tay của tôi, để néo hai đầu mãnh gổ, to và dầy cả lóng tay, chụm lại với nhau để làm thành mũi ghe. Mỗi lần thấy ông ra sức xoắn dây thừng, tiếng dây nghiến vào gỗ nghe ken két rất ghê răng, tôi lại hình dung trong trí ra hai cánh tay ấy thời ông Hồ còn trai trẻ, bắp thịt phải rắn chắc, cuồn cuộn và cứng như thép. Cho nên tôi hoàn toàn tin lời kể của ông ngoại tôi là thực. Chỉ có điều, khi tôi hỏi lại, ông Hồ chỉ cười với cái miệng móm mém không còn cái răng nào, chứ không gật hay lắc đầu. Làng Xóm Cồn thoát được nạn cọp về phá làng được một thời gian chừng mươi năm thì lại gặp họa Bà Hỏa đến viếng. Bà Hỏa này còn ghê gớm gắp ngàn lần hơn ông Ba mươi. Chẳng là nhờ đất lành làm ăn được, dân làng gởi thơ về xứ rủ thêm bà con vào Khánh Hòa lập nghiệp. Làng Xóm Cồn từ đó trở nên đông vui, trù phú. Nhà nào cũng có ghe, xuồng để ra khơi đánh cá. Nhà cửa được xây dựng san sát như bát úp. Hồi đó toàn là nhà lá, cột kèo bằng tre nứa, mái bằng tranh rạ. Chỉ một hai nhà giàu có, tường mới xây bằng đá san hô với vôi trộn mật đường, mái nhà lợp ngói âm dương, sân lót gạch bát tràng màu đỏ. Vì vậy mỗi năm từ tháng 6 đến 8 Âm lịch, gió lào còn gọi là gió Nam từ bên kia dãy Trường Sơn thổi về suốt ngày đêm ào ào, nóng hừng hực như lửa, khiến cho người và vật ai nấy đều khô khốc, khô nức nẻ cả môi, thì những căn nhà lá cũng khô quắt, khô queo lại chỉ chực chờ một đóm lửa nhỏ vô ý lúc nấu bếp hay tàn thuốc vất bừa đâu đó cũng đủ gây một trận hỏa hoạn ghê trời. Mặc dù làng nằm giữa sông, biển, nước bao quanh ba bề, bốn bên nhưng không ai tài nào dập tắt được ngọn lửa trong lúc lão Thần gió cũng hùa theo thổi rầm rầm giúp sức cho Bà Hỏa tha hồ tung hoành, đốt cả xóm ra tro trong mấy khắc đồng hồ. Tuy nhiên, với sự đoàn kết, thương nhau với tình làng nghĩa xóm, người dân chài Xóm Cồn đã cùng xắn tay áo giúp nhau vần công, giúp của, xây dựng lại đời sống mới. Bà Hỏa đến tàn hại xóm làng không chỉ một, hai lần mà nhiều lần. Nhưng sau mỗi lần như thế, dân làng lại càng quyết tâm đoàn kết hơn, thương yêu nhau hơn và việc xây đời mới càng cao hơn. Đời sống trong làng ngày càng sung túc, thịnh vượng. Nhà ngói bắt đầu mọc lên đây đó trong xóm nhiều hơn. Con cái được ôm sách đến trường ngày càng đông. Học trò đỗ đạt thành danh với xã hội cũng nhiều. Mỗi kỳ trăng tròn vành vạnh treo trên mặt biển thì câu hò, tiếng hát, nói thơ Lục vân Tiên theo điệu “hụ hò khoan” lại rộn ràng vang lên nhịp nhàng theo tiếng chày giả sắn, từ đầu làng đến cuối xóm, của đám trai, gái trong làng tụ tập cùng nhau giả cây sắn để lấy nước nhuộm lại lưới chài bằng chỉ sợi đã bạc màu. Người dân Xóm Cồn sống thật giản dị, đơn sơ nhưng lạc nghiệp, âu ca trong cảnh thanh bình. Cuộc sống tươi đẹp tràn đầy hạnh phúc như thế cứ tưởng đâu sẽ êm đềm trôi theo ngày tháng an vui. Nào ngờ đâu ngày 30 tháng 4 năm 1975, bỗng xuất hiện một loài cọp dữ, từ phương Bắc tràn vào đã gây nên họa điêu linh, chết chóc, nhà tan cửa nát, muôn dân ly tán lầm than. Loài cọp này được ngoại bang ở xứ Nga La Tư và Bắc Cương nuôi dưỡng, huấn luyện thành một đoàn âm binh mãnh thú để đi cướp đất nước người khác. Lũ mãnh thú này được khéo léo ngụy trang dưới lốt người. Mặt người mà dạ thú nên chúng rất hung hãn, bạo tợn, khát máu. Một số con đầu đàn còn được huấn luyện nói được cả tiếng người. Giọng lưỡi của chúng thật ngọt ngào êm tai, dấu sau những tiếng gầm rúng động cả núi rừng. Chúng được xua vào Nam và tàn sát bất cứ người hay vật nào chúng gặp trên đường đi. Lúc đầu, loài người ở miền Nam ai ai cũng lầm cái giọng lưỡi ngọt ngào “sống chung hòa bình” ấy. Sau khi chúng lọt được vào nhà rồi thì biết ra đã quá muộn. Chúng thò nanh vuốt ra trong chớp mắt, vồ lấy gia chủ để ăn tươi nuốt sống ngay. Chúng chiếm luôn nhà cửa để ở và xua đuổi loài người lên núi, lên rừng nơi hang ổ ngày xưa của chúng, để sống cuộc đời cầm thú. Lịch sử xứ An Nam từ xưa đến giờ chưa có thời kỳ nào lại bị xáo trộn, lộn ngược, đảo điên ghê gớm như vậy. Thú đè đầu, cỡi cổ, cai quản loài người. Dân chúng miền Nam đã phải bỏ hết nhà cửa, của cải, ruộng đồng… bồng bế nhau bỏ chạy ra biển, vào rừng, lên núi để tránh thoát khỏi nanh vuốt của chúng. Làng Xóm Cồn cũng không tránh khỏi tai họa chung của loài cọp này. Nó hung dữ, sắt máu tới mấy ngàn lần hơn ông Ba Mươi bên núi Hố Dâu. Ông mãnh ở Hố Dâu chỉ năm thì mười họa mới bắt heo, dê của dân làng khi đói mà thôi. Còn loài cọp từ phương Bắc này hung ác vô cùng. Nó ăn thịt, uống máu người cả lúc không đói. Nó ăn chỉ vì bị ngoại bang huấn luyện và nhồi sọ chỉ biết hận thù giai cấp và trả thù. Bất cứ ai không cùng họ “thú” với chúng thì đều là kẻ thù. Phải nhai xương, uống máu, giết tiệt, diệt tuyệt, không chừa sót một tên. Làng Xóm Cồn đã bị chúng cướp lấy hết đất đai để xây lên một cây cầu bắc qua xóm Bóng, rồi lấy tên của một trong những con dã thú đầu tiên là Trần Phú để đặt tên cho chiếc cầu oan nghiệt đó. Còn dân chài xóm Cồn đã phải tan tác bốn phương tìm đường lánh nạn cọp vồ. Trước bầy cọp phương Bắc được huấn luyện thuần thục hung hãn và được chỉ huy bởi ngoại bang giỏi nghề dạy thú như thế, dù trong làng có cả trăm thanh niên dũng cảm như ông Hồ có võ đánh hổ giỏi cách mấy chăng nữa mà ở thế cô, cũng đành bó tay mà thôi. Thương thay mà cũng oán hận thay! Năm nay là năm Canh Dần, chính thị là năm tuổi của chúng, rất kiêng kỵ. Chúng rất có thể bị tai họa chết bất đắc kỳ tử cả đám cùng một lúc. Cầu trời được như thế cho dân lành được phận nhờ. Đã hơn 70 năm, theo lệnh ngoại bang, uống máu, ăn thịt người, xương chất cao hơn núi Trường Sơn, không biết lũ cọp phương Bắc có lúc nào nằm vắt chân lên trán, nghĩ lại cái ác, cái ngu của mình không nhỉ? Hay chúng vẫn u mê cứ tưởng mình đã lập công to thì chủ sẽ cưng chìu và luôn vỗ béo cho mình! Nhưng chúng đâu có ngờ rằng… Giờ đây một ông chủ nuôi dạy thú ở tận xứ Nga La Tư đã chết không kịp giãy hơn mấy chục năm rồi, chỉ còn lại một ông chủ tóc đuôi sam, bụng phệ, miệng cá mập, đang lúc sắp phá sản vì đông con quá, định mổ thịt bầy cọp nuôi bấy lâu nay, giờ đã vô dụng, để nuôi đám con đang đói giơ xương của mình. Cái kế “tằm ăn dâu” đang được thi hành dần dần để lùa lũ cọp vào cũi cho dễ đưa vào lò sát sinh. Chăng lưới đất liền phía Bắc, bao vây mặt biển phía Đông, cưỡi lưng trên Tây Nguyên, ba mặt giáp công như thế thì bầy cọp có biết cũng khó có thể quay đầu lại cắn chủ để thoát thân. Câu thành ngữ của ông chủ tóc tết đuôi sam là “Thỏ trong rừng đã hết thì chó săn, chim ưng ắt phải bị mổ”. Mộng bá chủ, nhuộm đỏ toàn cầu đã bị tan theo mây khói thì nuôi cọp làm chi nữa cho rách việc. Giờ đây thì lũ chó săn, chim ưng, cọp dữ đều sắp phải bị mổ cả. Thật khốn nạn và đáng thương cho số phận của chúng trong những ngày sắp tới. * * * Bạn hỏi tôi, cái lũ cọp hung ác, cái đám chó săn, bầy chim ưng đó là hạng người nào vậy? – Thì chính là bọn Việt cộng trong nước, lũ Việt gian và bọn trở cờ tự xưng là trí thức “Dziệt kiều iêu nước” ở hải ngoại, mới đây về quần tam, tụ ngũ ở hang Pắc Pó Mỹ Đình chớ còn ai trồng khoai đất này! – Ra là thế! – Bạn lại khéo ỡm ờ! Nguyễn Thanh Ty 12/9/09 Đánh giá Dân Bình Thuận mà chưa biết câu “Cọp Khánh Hòa Ma Bình Thuận” thì chỉ có nước đập đầu xuống gối mà chết vì kiến thức thua cả thiếu úy Thọ. Nhỏ nghe đủ loại ma bắt mà sợ, nào ông kẹ, ma cụt giò, ma vú dài. ma cột đèn. ma gốc cây…Đến hơn 60 tuổi, tôi vẫn còn sợ ma nhưng rất thích nghe chuyện ma, hể chương trình discovery trên TV nói về ghost là tôi chờ xem cho được. Có khi tôi nghĩ ma Khánh Hòa cọp Bình Thuận thì đúng hơn, có lẽ vần không được suông nên đành nói ngược lại. Những gì kể sau đây, các Bạn chỉ nên tin một phần, góc ba góc tư gì đó, tôi không chịu trách nhiệm phần trăm nào hết. Trước hết là chuyện cọp, chuyện cọp và ma, cuối cùng là chuyện ma không có cọp. Lúc nhỏ ở nhà Dì Hai, má chị TS, tôi thấy cứ Tết đến là Dì làm một mâm cúng ông Cọp, mà ông này cũng có hình ảnh treo trên tường đầu hồi. Dì tôi kể lại, khi xưa dịp Tết, Bà của chị TS có dắt người con gái chưa chồng lên chùa Núi. Trên đường lên núi, thấy người con gái đi chậm, bà nói giởn, nếu chậm sẽ gửi lại chùa cho Thày trụ trì. Chợt nghe tiếng cọp gầm tỏ vẽ giận dữ. Đoàn người sợ, vừa niệm Phật vừa lầm lũi bước nhanh. Lên đến chùa, kể lại chuyện cho Thày, Thày nói có thể đó là ông Cọp đang tu trên chùa, nghe được những câu xúc phạm Thày, Ổng giận. Các buổi tối sau, xen lẫn tiếng kinh tụng của Thày là tiếng cọp rống. Thày trụ trì khuyên nên xuống núi sớm. Đoàn người nghe lời, tờ mờ sương đã vội vả khởi hành xuống núi, thỉnh thoảng nghe tiếng chân sột soạt và hình như có cặp mắt nào đó đang rình mò. Về đến Phan Thiết, cũng không ai để ý đến chuyện ông cọp, sinh hoạt bình thường. Một buổi sáng, khi đi chợ về sắp đến nhà, Bà của TS nghe lối xóm báo tin có Cọp ngồi trên mái nhà, hổng biết khi nào và cách nào mà ổng lên được. Hoảng hốt, Bà nhớ lại chuyện đi chùa… Sau đó, lính Pháp bắn chết Cọp vì không thể nào mời ổng xuống nói chuyện phải trái. Đó là chuyện Cọp về Phan Thiết có thật, những người trên 90 tuổi còn khỏe không bị lãng đều biết chuyện này, cần chi tiết hỏi thêm chị TS. Chuyện thứ hai là chuyện vừa cọp vừa ma. Mùa mưa năm 85, có lần tôi lên Tánh Linh làm đường Tà Pao Mê Pu. Đêm ngũ chợt nghe tiếng la hét, tiếng súng nổ lúc đó súng đạn còn nhiều, tỉnh dậy nghe anh em nói lại Cọp vào nhà bắt người. Con cọp này gan thật, nhảy qua cửa sổ tha người chạy mất, bầy chó sợ điếng hồn cụp đuôi mấy ngày sau mới dám sủa. Theo dấu móng cọp để lại, có người khẳng định đây là con cọp “độc” chuyên bắt trâu bò heo gà ở Mê Pu, có lần bị sập bẩy, cọp vùng vẩy cắn người thoát ra được, từ đó còn 3 chân và lại thích ăn thịt người. Những ngày sau, cả xã chia ra nhiều nhóm nhỏ đi tìm nhưng vẫn không thấy xác. Có người bày cúng gọi hồn vì chắc là chết rồi. Nghe cũng có lý và cũng không còn cách nào khác, gia đình người chết rước sư Thày về cúng. Đêm đó, người vợ ngủ mê mơ thấy bóng chồng, chỉ nơi nằm nghĩ, dặn vợ đừng ầm ĩ vì cọp nghe được. Sáng hôm sau, chị vợ nói lại giấc mơ, cả làng đi tìm cả chục cây số và đúng như báo mộng, xác không còn nguyên vẹn mà chỉ còn phân nửa bên dưới được con cọp tinh dấu kỹ trong lùm cây. Theo kinh nghiệm những người thợ săn lâu năm, anh em động viên gia đình người xấu số, xin để nguyên xác người tại chỗ chưa đem về chôn, chờ rình bắn con cọp quay lại ăn mồi. Chính xác, khoảng một tuần thì con cọp “què” chủ quan khinh địch quay lại vào tờ mờ sáng, bị bắn chết khi chưa kịp tha mồi phóng vào rừng. Chuyện ma thì nhiều lắm, chỉ kể mấy chuyện nho nhỏ, để mấy bạn đêm khuya thao thức trằn trọc đọc xong sợ ma trùm mền kín mít từ đầu đến chân dễ ngũ mà thôi. Bình Thuận là vùng đất cuối cùng của người Chiêm Thành, công chúa cuối cùng Bà Thềm cũng chết tại Bình Thuận, nhiều mộ Tần mộ Hời, nhiều kiểu chết nên tụ tập khá nhiều loại ma. Từ nhỏ đã nghe về Ó ma lai, ban đêm bay đến các ngôi mộ mới chôn đào ăn xác người. Ma lai ban ngày là người, sinh hoạt tất cả mọi thứ đều bình thường, chỉ ban đêm mới thành ma. Rút đầu ra khỏi cổ, đem theo ruột gan lòng thòng, bay đi ăn đêm. Nhớ lại khi xưa, thường ngủ chung với mấy Dì và mấy người Chị, vẫn sợ sệt tưởng tượng lung tung, đêm khuya lò mò thức dậy coi mấy Bà này có biến thành Ó ma lai hay không, sờ thấy còn mái tóc dài mới yên tâm ngũ khò đến sáng. Những năm 90, vợ của một người bạn khóa 72 của tụi mình, đang làm Ngân hàng ổn định, rất đẹp nhưng cổ lại có ngấn. Thế là dân Phan Thiết loan tin đồn Ó ma lai, cả nghìn người rủ nhau đi xem, báo hại Ngân hàng phải đóng cửa và hậu quả là vợ bạn phải nghỉ việc, tức thật vì đến nay cô này vẫn còn sống khổ. Có lời khuyên, mấy bà bạn đẹp lão, da trắng cổ có ngấn, cần xem lại mình có phải là ma lai hay không để chỉ hẹn bạn bè gặp nhau vào ban ngày. Một vị ma nữa là Thần Trùng. Truyền rằng, Thần Trùng chuyên làm khổ những người mới chết trong vòng thất tuần chưa kịp tỉnh ngộ trình diện diêm vương. Hù dọa tra khảo để người chết khai ra những người thân trong gia tộc, bắt đi theo. Vì vậy khi gia đình có người mất, việc đầu tiên là phải nhờ Thày xem ngày giờ người mất, tuổi người sống, ai bị trùng không được nhìn mặt khi tẩm liệm, không được dự lễ hạ quan… Lúc nhỏ ở Đức Thắng, nghe nhiều về chuyện Thần Trùng bắt người, ban đêm giả một giò, đi rảo các con đường hẻm mờ ảo ánh sáng vàng của bóng đèn tròn lung lay theo gió. Ghê nhất là chuyện Thần Trùng bắt cả nhà ông Thất Ngàn, ở đường xuống dinh vạn Thủy Tú. Sau này, gia đình một người bạn 72 đường NTH hình như cũng bị Thần Trùng chiếu cố, người con vừa chết chưa chôn là người cha cũng tự tử chết, sau đó không lâu là người em gái. Bình Thuận là xứ biển, chết đuối là chuyện bình thường, người ta cho là bị ma da kéo không phải là ma nhớt mới xuất hiện gần đây chuyên hù mấy bà góa. Dân biển cho rằng sau khi những người bị ma da kéo chết, cũng trở thành cô hồn, thường giả thành gái đẹp đi thơ thẩn trên bờ biển hoặc ngồi lạnh co ro, tìm người kéo xuống biển thành ma cho vui. Chết đuối, gia đình không cho đem người chết vô nhà, sợ rủ thêm người thân. Có một năm Phan Thiết bị bão xuất hiện bất ngờ gần bờ, hàng trăm xác người chết trôi vào dọc bờ biển từ Đức Thắng Lạc Đạo xuống Xóm Biển Xóm Trạm, cảnh người chết đắp chiếu, cảnh người thân khóc chờ đợi xác trôi vào, suốt đời tôi không bao giờ quên. Để những người chết đuối, những ma da cô hồn tứ cố vô thân có nơi nương tựa, người sống lập ra các nơi thờ như sở miểu Cô Bác tại Đức Long, miếu cô hồn Động Làng Thiền, miếu Cồn Chà gần nhà NN., một người bạn 72 đã mất. Thú thật, tôi vẫn chưa gặp ma da, dù rằng rất nhiều lần thấy bóng người ngoài biển nhưng rốt cuộc không phải là ma thật, chỉ là cô hồn sống. Trên rừng thì nhiều ma đói lắm, do chết, chôn giữa rừng thiêng nước độc nhưng người thân không có hoặc không đến thăm mộ tục lệ người dân tộc. Hồi ở Bình Thuận, có lần đi rừng La Dạ, lang thang tìm lan rừng, thấy vắng người, kéo phẹc…, tự nhiên tôi lạnh người, thấy thoáng có ai đang nhìn mình mỉm cười. Vội vàng kéo lại…, ráng nhìn kỹ nhưng người lạ biến mất, tôi lên tiếng hỏi cũng không ai trả lời, bước theo khoảng vài thước thì một nấm mộ đất nho nhỏ nằm tự bao giờ. Tôi hiểu, khấn nhanh và rút lui có trật tự. Sau này, một lần đi rừng Bù Đốp Lộc Ninh, tôi cũng gặp chuyện lạnh xương sống tương tự. Những Bạn có dây thần kinh số 6 tốt, đều có khả năng “ngoại cảm” như tôi, có điều không bằng nhà ngoại cảm BH, nghe nói bà này biết được cả răng người chết nằm dưới mộ. Chết mà tức tưởi cũng khó siêu thoát, thường hóa thành ma le trêu người. Ở Phan Thiết, có con đường NTT mới mở sau 75, nối THĐ và Đồi Dương. Khi phóng đường, gặp ngôi mộ của một cô gái vượt biên khu vực Vĩnh Thủy bị chết, xe ủi thi công đều bị trở ngại, máy chết hoặc người lái bị nhập hóa điên. Không ai dám ủi mộ, dù có thưởng cao và đã nhậu xỉn, rốt cuộc, phải né ngôi mộ, nay trở thành một ngôi miếu thờ. Năm tôi làm đường Đông Tiến Đông Giang cũng gặp hiện tượng này khi phóng đường qua một nghĩa địa người K’Hor, máy ủi D9 của Mỹ khi đến đó là tắt máy, dù đã làm dê cúng tạ, chỉ còn cách lánh xa mấy vị. Hay ở các khúc đường quốc lộ qua Cá Ná, Hồng Sơn… cũng vậy, xe chạy ban đêm hoặc giữa trưa là thấy người vẩy, con nít chạy long nhong ngoài đường, tài xế tưởng là cán chết người nhưng xuống xe không thấy ai lại còn nghe tiếng trêu chọc. Lập miếu thờ là yên chuyện. Các hiện tượng tâm linh này tôi vẫn chưa giải thích được. Bình Thuận còn nhiều chuyện ma lắm, chuyện ma trơi hiện ra thành đốm lửa lập lòe trong nghĩa địa, chuyện xin ván hòm làm con cơ. Muốn cầu cơ còn phải có cả bàn chữ, bài thơ cầu cơ, một cây đèn dầu vì phải ra nghĩa địa ban đêm. Phải tin và tịnh tâm, đè tay nhè nhẹ lên con cơ, khấn hỏi, cơ sẽ chạy theo từng chữ cái, ráp lại thành những câu trả lời. Ai nặng bóng vía và nghịch phá, con cơ chạy loạn xạ, có khi chửi thề. Bạn nào tin, có khi còn được ma nữ theo về nhà, nhưng rất hiếm. Ma nhà thương trên đường vào nhà xác bệnh viện Phan Thiết thì phải hỏi GH. Ma dốc đá ông Địa phải hỏi KL. Ma hời khu mộ cổ Chí Công thì phải hỏi V. Ma cây dúi Hồng Sơn thì phải hỏi H. móm hay D. Yamaha gì đó… Thế giới vẫn đang tìm hiểu chuyện oan hồn ma có thật hay không. Có những chuyện rờn rợn hay tâm linh vẫn chưa giải thích được như chiêm bao báo mộng, cầu hồn lên đồng, thần giao cách cảm. Bằng những thiết bị công nghệ hiện đại ghi âm ghi hình, đo dao động sóng âm, khuếch đại vi sai năng lượng…, vẫn chưa đi đến đâu. Ma vẫn là ma mà người vẫn là người, chưa hiểu hết nên chưa gặp được nhau. Hiện nay Bình Thuận hết cá biển lẫn hết rừng, thành phố Phan Thiết thì đất chật người đông, cả người chết tìm đất chôn cũng khó, làm sao ma quỹ còn chỗ nào mà ở. Chuyện ma Bình Thuận chỉ còn trong dĩ vảng. Thật ra, không ma nào tôi sợ bằng maman mấy đứa nhỏ. Có lẽ mấy bạn trai của tôi cũng vậy, tính di truyền từ thời Lạc Long Quận phải dẩn 50 con lên núi theo lệnh bà Âu Cơ. Phạm Sanh, P3/B2 72PBC Đây là một quyết tâm rất lớn của chính quyền địa phương, cần ghi nhận. Việc làm này thể hiện hiệu lực quản lý nhà nước từ UBND tỉnh Bình Thuận. Bởi ngay sau khi Báo Thanh Niên phản ánh những trường hợp lấn chiếm đất rừng, hành lang QL28B để xây dựng các trạm dừng chân, UBND tỉnh Bình Thuận đã có những phản hồi tích cực, tiếp thu phản ánh của báo chí và cương quyết chỉ đạo phải tháo dỡ. Tuy nhiên, phải đến gần một năm sau, các quyết định này mới được triển khai thực hiện. Dù đã tháo dỡ được 4 trạm dừng chân trái phép, nhưng vẫn còn 2 trạm dừng chân khác là Như Anh và Hoàng Yến nằm sát bên nhau, nơi khúc cua ngoạn mục của đèo Đại Ninh, giáp ranh hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận. Có thể nói, đây là khúc cua có cảnh đẹp mê hồn, hấp dẫn du khách mỗi khi dừng chân. Lợi dụng cảnh đẹp trời cho, các chủ đầu tư đã dựng trái phép những cây cầu “selfie” tự chụp ảnh - PV để giữ chân du khách mỗi khi từ Mũi Né lên Đà Lạt và ngược lại. Nhưng du khách không hề biết mình đang đứng trên những cây cầu cực kỳ nguy hiểm cho tính mạng, vì nó có thể sụt lún, sập xuống vực sâu bất cứ lúc nào vì cách làm tạm bợ. Nếu ngay từ đầu, các cơ quan chức năng kêu gọi, hướng dẫn các doanh nghiệp, các hộ dân lập phương án đầu tư theo đúng pháp luật, thì không xảy ra các vụ việc đáng tiếc như thế này. Kỷ cương, pháp luật phải được thực thi một cách nghiêm túc. Đây là bài học cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý địa bàn. Buổi sáng bữa hổm... Tại quán cà phê cháo lòng Bà Sáu Mập, Bác Bác Ba Phi đã kể chuyện Cọp Khánh Hòa. Bữa sáng nay, cũng tại quán cháo... bữa hổm Thằng Tư Rèn húp sạch tô cháo lòng, mà trong bụng nó muốn hỏi chuyện Bác Ba, nhưng chưa dám và nó hỏng biết tính sao, thì Bác Ba Phi cũng ăn xong, rồi xỉa răng... Ba Phi hút Thuốc Cái, quấn điếu bự, lại hút kinh niên, nên răng cỏ, đóng-khói đen hu, hàm răng...thì thiệt, nhưng răng hơi-hơi nhốm-chưng, nên bị lung-lơ, ba xí ba tú...như hàng rào ấp chiến lược...bị đào, nên kẻ răng mới...hít miếng lòng dai nhách vô đó. Ba Phi...hả họng, khượi được miếng lòng, liền kéo ra nghe cái chạch, rỏ to, rồi quăng miếng lòng heo...nghe cái phịt, thiệt là...mất vệ sinh và con heo con chạy lại ăn liền, nên hỏng thấy cái gì trên nền quán cháo hết ráo...Xong xuôi đâu đó, Ba Phi hỏi Tư Rèn - Mầy dòm tao cái gì, mà dòm dử vậy? - Tui đợi Bác Ba cạy xong kẽ răng... - Đợi chi vậy mậy, nói coi...Tư Rèn bậm gan hỏi liền - Đợi Bác Ba kể tiếp chuyện Cọp Khánh Hòa. - ...tao kể rồi... - Hí hí...còn thiếu ”vế hai” trong câu Cọp Khánh Hòa-Ma Bình Thuận, đó ông. - ...o=>>>...rồi sao...=>>> - ...?!...hì hì...Bác Ba, biết...còn hỏi đố, kể tiếp đi mà! Bác Ba Phi suy nghĩ hồi lâu, lấy tay gải ót mấy phát, im lặng một hơi, rồi nói - Hể kể chuyện ”ma” là tao...bắt buộc, phải nói tới thầy bùa Hên, chịu hong? - Trời! Lại lảo Hên!!! Oãi quá, nhưng Bác Ba cứ kể, để tui, coi sao? - A-ha-ha...khục khục...khạc, phèo...à ùm... Ba Phi tằng hắng hai ba phát, ho đi họ lại mấy tua=>>>rồi ôm ngực ”khạc-xịc” mấy lần, hỉ mủi tùm lum=>>>rồi...à ùm ú ớ=>>>rồi...nín khe luôn! - Héhé...Ba Phi ”nói rồi 3 phát”...rồi...rồi sao...zị chời??? Bà Sáu nói. - ...chưa nói được, để coi na...Ba Phi lấy tay gảy ót sồn sột, ra vẻ bối rối, Tư Rèn hỏi - Ủa...ăn cháo lòng mà ”mắc xương” hả Bác Ba??? - Hỏng có... - ...thì Bác Ba nói đi... - Tao nói ”khúc nào” bây giờ?! - ...nói tiếp cái khúc ”ma-bình-thựng”. Thế là Bác Ba Phi móc đải thuốc rê, hai tay Ba Phi quấn, miệng nói - Để coi...khi con Ma sổng chuồng, bà con nhè tìm bộ-ba trị cọp=>>>để trị ma. - Trời trời, vậy là trật cù chìa, thúi hẻo rồi. - Nghe tin ”mời trị ma”, thì ”bộ ba trị cọp” hết hồn, sợ quá, trốn về quê, để ẩn thân. - ...>>>...trời trời...sao kỳ vậy??? - Bởi bộ ba trị cọp, nhưng lại...sợ ma...hì hì... - É é...kỳ nha... - Kỳ gì, nè Tư Rèn, trị cọp...hỏng giống trị ma... - Ờ ờ...hé hé... - Do không ai trị, nên con ma nó ”lộng”, người ta mới đồn rùm. - ...?!...cha chả... - Chuyện Ma Bình Thuận, bị đồn riết=>>>đồn tới xóm Ngả Ba Vàm... Sau một hồi ngồi nói um-trời về chuyện Ma Bình Thuận, cả quán cháo im ru...nghe. Ai nấy cũng ngở ngàng, hỏng biết chuyện Ma Bình Thuận...có thật hay không?! Nhưng Ba Phi cứ nói...chắc là có, thì bà Sáu chủ quán cháo, cải Ba Phi - Đồn rùm, sao quán cháo hỏng nghe, ê-ê…mới sáng sớm, tính nói dóc hả? Tư Rèn nói - Ờ ờ ”nhứt bến đò, nhì lò rèn” sao lò rèn con, cũng hỏng nghe?!Ba Phi nói tỉnh khô - Người ta biết=>>>cái lò mầy với quán cháo nầy...sợ ma, nên ai dám đồn, mà nghe! - Vậy vậy, đồn sao=>>>bây giờ Bác Ba nói nghe chơi... - Đồn như vầy Ở Bình Thuận có con Ma, gọi là ma-lai, nó ”mó” ai, thì khắc chết. - ...>>>... - Vì vậy, lâu lâu, có người chết, rồi lại lâu lâu, cũng có thêm người chết, chết hoài... - Chết gì dử vậy, Bác Ba nói lý do coi? - Chết là do con ”ma-lai rút-ruột” ôn hoàn nầy gây ra, nếu ai đi cầu, mà không đào lổ lấp phân, nếu nó ăn được...là coi như, người đó bị teo ruột...ắt ngũm, đi tong... - Tời!!! - Cả làng hỏng dám ho, người ta cầu thầy pháp thầy bùa, nhưng thầy nào tới trị, thì trước sau gì, thầy cũng bị...thân bại danh liệt, còn nếu không, thì hỏng chết, cũng bị thương... - ...>...í cha cha...”ớn đạn”...quá he... - Lúc đó, người ta quýnh quá, nhè thỉnh bộ ba trị cọp...tới trị ma, nên thất bại thảm hại. - ...sao vậy...?! - Vì trị cọp...hỏng giống trị ma, nên bộ ba...bỏ chạy tét ghèn, rồi mấy dả đồn rùm ben. Bà Sáu thất vọng, nói - Ối trời, ông nội thằng Hùm, tía thằng Hùm, thằng Hùm bỏ chạy, thì ai dám trị ma? - Để coi na...ờ ờ...Tía thằng Hùm...mách, cho biết=>>>...rằng, thì là...là, là... - ...là là...sao??? - Ở xóm Ngả Ba Vàm, có Sáu Hên là thầy bùa dử, lảo già tay ấn, trừ tiệt quỉ mị tà ma! Khi Bác Ba Phi nói tới thầy bùa trời gầm Sáu Hên, trong quán, ai nghe, cũng nín-địt. Riêng Tư Rèn nó ”ghim” trong bụng, cái vụ ”thầy trị ma bình thuận” mà sao lại thân-bại danh-liệt, thì nó thấy ”ớn ăn” quá, nên nó...lo xa cho thầy bùa Hên, Tư Rèn nhắc lại - Trị ma, mà thân bại danh liệt=>>>là sao, còn=>>>hỏng chết cũng bị thương=>>>cũng là sao, nói cho con nghe, để con ”đón vận mệnh” thầy bùa Hên coi, híhí... Vậy là Tư Rèn, lo cho thầy Hên, nên hỏi kỷ quá xá. Ba Phi nói cho nó biết, như sau - Thân-bại là vầy Mấy ông thầy bùa kia, tới trị ma-bình-thuận, toàn là thầy dử, con quỉ 1 giò nào...nhúc nhích, là bị mấy thầy tó hết, để nhốt vô hủ, chật hủ, thì nhốt trong lu! - Ối trời...mấy ông thầy trị quỉ đó...dử thiệt... - Là thầy ”trị quỉ” nên, mấy ổng...khi dể ”con ma”...đó mới là ”sát số” mấy ổng?! - Nè...hởi chú Ba nó, nói chuyện ”thân bại” nghe chơi...híhí...Ba Phi nói tiếp - Thân Bại là vầy nè...Khi tới, quí thầy lo ăn nhậu, cứ đòi mấy món ”ác chiến” như Tiết canh heo rừng, sóc hầm tiêu, mễn nướng mở chày, cheo la-gu, kỳ đà rang muối, cóc kho xả ớt và nhái chiên rơm xả…với cháo bù tọt..vv và vv... - Tời tời...tòn-là món nhậu thứ dử...không hà... - Do ăn nhậu li bì, thầy bị “phá ruột“, nên ỉa chảy, ỉa lâu, nó lây qua ỉa kiết lỵ, rồi ỉa ra máu, rồi đi-không-nổi, quí-thầy ”bị 4 cái ỉa 2 cái rồi”, thì đành cuốn tượng, lết về quê! - Úi chà chà...hí hí... - Tao hỏi mầy=>>>thân hỏng bại, sao quí-thầy, đi-khỏng-nổi, phải lết...hé Tư con!? - Khửa khửa khửa...=>>>thế còn ”danh liệt” Bác Ba nói luôn coi, nghe đã-chỉ thiệt. - Sau đó, mấy ông thầy khác tới, cũng xưng là thầy-dử=>>>dử tới độ “thầy chạy“. - Hè hè...hí hí...tòn là thầy dử không hà, quá đã... - Quí-ổng cũng lập ”chay đàng” cũng gọi-hồn ”tróc-quỉ” tối trời tối đất 3 ngày 3 đêm. - Nhưng ở đây là ”con ma” nha Ba Phi, liệu mà nói. Bà Sáu nhắc chừng Ba Phi. - Ối tời tời...vậy là xí hụt, trật quẻ rồi he Bác Ba? Tư Rèn cũng rành, Ba Phi nói - Mấy ông thầy dử...thầy chạy nầy, trước khi ra tay, cũng ăn nhậu tè le...để bắt trớn. - Ối trời...thầy bà gì mà ăn nhậu hà rầm, vậy trời?! Ba Phi nói - Khi nhậu xừng-xừng, mấy ổng nói...nghe phát ham. - Gì đó...Ba Phi nói tiếp - Đã là ”thầy” thì phải nhậu “bứt gân“ bợm nhậu, phải “dắt lổ tai“ dân nhậu hết ráo... - Con bà nó, tòn-là dân ”bợm bảy” không hà...Bà Sáu chửi sảng. Ba Phi cho biết - Lúc quí-thầy sỉn-sỉn, bụng no nứt trứng, thầy dử...hìhì...cũng phải đi cầu, gặp đêm tối hu, nên thầy hỏng thấy đường, rồi gặp giờ xấu, nên thầy...té giếng. - Trời đất ơi...rồi kết cuộc nàm-thao...hehehe... - Thầy nầy, chỏng-khu cứu nạn thầy kia, nên sau cùng, quí thầy-dử...té giếng hết ráo! - Hí hí...nghe nó đã cách gì...Ba Phi nghe Tư Rèn...bộc bạch, rồi cho biết thêm - Tới sáng, chiếu nhậu vắng hoe, tưởng thầy bùa mà bị ”ma-dấu”, nên bà con đi kiếm, hỏng ngờ, mấy...cha của tao, đứng lủ khủ dưới đáy giếng, khóc hu hu...như bị đỉa đeo! - Sao mấy thầy hỏng leo lên, giếng có “bực“ mà?! Tư Rèn tài lanh nói. Ba Phi cho biết - Nè con, trên đầu của thầy, trong hông-giếng, có mấy con rắn mái gầm thò đầu, lè lưởi dòm xuống...nè Tư con, mầy leo lên...kiếm ăn!!! - Vậy là thấy ông cố tổ mấy ông thầy! - Dân làng nghe khóc văng vẳng, dòm-giếng, thấy quí thầy đang ngự lủ khủ ở...nớ. - Hí hí... - Thầy dử, mà khóc lóc...như con nít, tao hỏi mầy ”danh liệt“ hong chớ?! - Vậy là tanh banh thanh danh, còn thầy Hên mình...ngon ăn hong? Ba Phi nói - Thầy bùa Hên ”đã từng nói nhỏ” cho tao biết=>>>ổng ”chỉ học” bắt quỉ, còn ma thì thầy Hên chê, ổng khỏng thèm học...mới ra nông nổi - Khò khò khò... - ...thế, thế bi giờ, mới...ế-cùm-cum thầy bùa Hên rồi đa...hìhì... - Khà khà khà... - Khi tao hay tin có người vô xóm Ngả Ba Vàm tầm-thầy-trị-ma, là tao nghi-nghi. - Bác Ba nghi cái gì... - Tao nghi là, họ sẻ đi tìm thầy bùa Hên... - ...?!?!...hí hí... - Khi ông Hên biết tin đó, lảo xanh hồn, vội tìm tao, nhờ tao vấn-kế cho ổng. - Hí hí...Bác Ba ”vấn” sao đây>>>...??? - Con bà nó...tao chưa biết ”vấn thế nào” thì Tía mầy bàn Ba thằng nên đi trốn!!! - Ối trời, Tía con cũng xía vô chuyện nầy, hả Bác Ba, ngộ quá xá!? Ba Phi nói - Bởi vậy, Ba Phi...tao, mới...dám hô lớn Đây là “bộ ba xóm vàm“...khà khà. - Ồi trời trời!!! Lại thêm một ”bộ ba” nửa hả trời, mô phật?!? - Biết còn hỏi đố... - Rồi sau đó, Tía con...tính sao?! - Tía mầy về nhà lục tủ, gom tiền, má mầy hỏi, tía mầy hỏng nói, làm má mầy giận, vậy là má mầy...coi như, xí bùm bum tía mầy! - Trời!!! Còn Bác Ba? - Tao về nhà gom đồ xong, thì lảo Hên lót tót chạy tới, lảo hối tao đi như chạy giặc! - Ông Hên làm gì dử vậy chớ? - Chớ chậm trể, người ta tới, mời thầy bùa Hên đi ”trị ma”...thì ổng có nước cắn lưởi. Bà Sáu chủ quán, nảy giờ ở dưới bếp nghe hết ráo, nên nói lớn - Xời, khi khổng khi không, ba cha ra đi, bỏ xứ...xời...Ba Phi...né nghe cái ót - Sao là ”đi bỏ xứ”, tui tính đi tới ”khung trời tăng nhơn phú”... - Úi chời...=>>>”khung trời tăng nhơn phú” nghe nên thơ quá hén... - Ừ vậy đó...hìhì... - ...=>>>tới ”khung trời ấy” thăm ai vậy chú Ba Phi? - Thăm thằng em út Tám Nhểu. - Bác Tám ở đâu? Tư Rèn hỏi. - Tám Nhểu ở gần Cầu Bến Nọc, xứ Gò Công Trao Trảo, miệt Thủ Đức...*** - Úi tời...Bác Tám Nhểu, có nói dóc dử hôn, Bác Ba Phi khai thiệt coi...hì hì... - Thằng Tám Nhểu nói dóc...tàn canh bí đao, y xì như tao...hì hì... - Khửa khửa khửa... - Bộ Ba đi lên Miền-Tăng-Nhơn-Phú bằng cái gì! - Đi xe lửa lên SaiGon, rồi từ SaiGon, đi xe đò lên Thủ Đức...dể ẹt hà!!! - Lâu lâu ”đi thầy gòn” một phát, đã nhen...!!! Từ Rèn nói vậy. Nghe khen, Ba Phi khoái tỉ, xì ra một chuyện...=>>>nghe ”mê-thu” như vầy - Khi ngồi xe lửa, ”bộ ba” nghe đồn, là ở Trảng Bom...có mỏ vàng!!! - Trời!!! Tư Rèn kêu trời. Ba Phi nói luôn - Nghe vậy, tao nói, sẻ đào vàng để làm giàu, tía mầy mê quá, liền kêu một lít đế với một lạng tép-mở, để ba thằng nhậu…ăn mừng trước! - Trời trời, chưa chi đã nhậu ăn mừng... - ...quá đã, kể tiếp coi chú Ba. Ba Phi kể liền - Nhậu đả-chỉ xong, ”bộ ba” nằm ngơi, nhè...ngủ quên, mới thắc họng!!! - Úi chời... - ...con bà nó...khi xe lửa chạy tới ga Tháp Chàm Phan Rang, lảo soát vé, kêu dậy, chửi rủa một tăng, rồi đuổi xuống ga, như đuổi tà!!! - Cha chả...mấy ông ăn nhậu gì...mà bầy hầy quá! Ba Phi kể tiếp - Trong khi đó, mấy ông Bình Thuận khổng tìm được thầy trị ma=>>>cũng đi xe lửa về quê, rồi cũng xuống ga=>>>cùng lượt với tụi tao=>>>đả-đíu chưa nè!!! - Úi chời chời... - Mấy cha đó, thấy tụi tao bị đuổi, mấy ổng thấy tội nghiệp, bèn hỏi thăm qua lại, mới lòi ra, là mấy ổng vô Ngã Ba Vàm, tìm thầy bùa Sáu Hên...chết tổ hôn Tư? - Ối ối... - Bây giờ...mới thắt họng nè Tư Rèn ơi...huhu và huhu...Ba Phi rên thấy thương luôn. - Trời!!! Lưới trời lồng lộng khó thoát, he??? - Nói vậy nghe hỏng vui mậy! Đó chỉ là “trời xui đất khiến“…thôi nhé! - Khửa khửa khửa… Nói tới đây, y như rằng, Bác Ba Phi lấy đải thuốc, móc cục Thuốc Cái, quấn 1 điếu, bập một hơi…mấy bập, chu mỏ, xả khói, như khói xe lửa, rồi nói tiếp một hơi dài - Khi biết chuyện “tìm thầy“ nầy ông Hên tá hoả, tía mầy xanh gân, tao thì thần hồn nát thần tính! Tao cũng hỏi qua-loa lấy lệ, về chuyện ma-cỏ, thì mấy ông đó, cho biết rõ - Con ma bình thuận đã “tiển” về quê…câu cá, cả chục ông thầy rồi, thời may, nhờ “bộ ba trừ cọp khánh hòa” thày lay, xí xọn, cho biết=>>>còn 1 thầy dử nửa, giỏi gấp 10… - …híhí…Ba Phi nói tiếp - Bộ ba trị cọp cho biết thêm Ông thầy bùa, mặc dù…nhỏ con, nhưng chơi toàn bùa miên ngải thái, còn tà ma quỉ quái hay con khỉ gì, lảo ta cũng nhốt vô hủ ráo nạo… - Úi chà, con hỏng ngờ tài nghệ của thầy Hên…vang vội tới đó!!! Ba Phi nói tiếp - Mấy ông đó “cảnh cáo tao” Hảy coi chừng thằng “tay mặt“ của ông thầy bùa…nhỏ con, thằng-tay-mặt nầy…nói dóc tàn canh gió lốc, còn dặn tao…lại phải để ý thêm ông thần…sồn sồn thứ ba, ông cố nầy già hơn thằng nói dóc một xí, lại còn ăn nhậu bạt mạng tứ phương, lì hơn trâu, uống rượu như hủ chìm, ẩn hiện như ma như quỉ, ổng nhậu vô 1 xị…là coi trời bằng hột tiêu?! - Hỏng lẻ ông “sồn sồn“ nầy là Tía con? - Chứ ai vô đây, biết còn hỏi đố mậy?! - Úi chời chời… - Mấy ông đi tầm-thầy-trị-ma nói thêm Bà con xứ Bình Thuận đang…sợ ma, muốn dọn nhà bỏ xóm, dân tình khổ quá, chưa biết tính sao…tao nóng ruột, nói đại - Mấy ông có tin là bộ-ba tui, trị nổi con ma đó hong?! Mấy ổng nói - Ối xời! Bộ Ba...cái cù loi...=>>>mấy ổng khi-dể vậy đó=>>>tử-cưởng hong Tư?! - Hehehe... - Một ông già khác...bất chợt, khều tao ra chổ khác, nói nhỏ - Mấy ông là ai, ở đâu tới, tới đây làm gì? - Ý chà chà, hỏi vậy, Bác Ba...biết trả lời sao? - Ông ứng bà hành, bửa đó, tao nói...y như tỉu-thiết - Bác Ba nói lại coi...híhí...Ba Phi nói - Đừng hỏi tụi tui là ai, cũng đừng nên biết tụi tui từ đâu tới, cũng hỏng nên tìm hiểu, tụi tui tới đây để làm gì, cứ mặc kệ tía ba thằng tui, vậy được hong, mấy cha?! - Cời cất cơi...sao ”bộ ba” của Bác Ba, tính trừ ma, mà lại giấu tông tích??? - Là bởi, con ma đó linh lắm, nó biết ai trị nó, thì nó cho ngũm cù đèo trước! - Ối...Bác Ba tính-tón như thần... Tao kéo tay ông đó, tới bên ông Hên, tao nói nhỏ - Thầy Hên nè, ông nầy nhờ mình trị ma, mà sợ tụi mình...bỏ chạy mất guốc! Tía mầy nghe được, nóng mặt nói luôn, hỏng ngại miệng - Gỉỉỉỉỉ??? Tụi tui mà sợ, mấy thằng nầy mà sợ ma, hỏng dám sợ đâu... - Công nhận, Tía con dử thiệt...Ba Phi nói tiếp, Tía Tư Rèn nói như vầy - Tui vô một xị=>>>gặp trâu điên, tui còn dám dăng tay chận đầu nửa là...ối nhằm nhè gì tui chớ, nè...con quỉ 8 giò, tui coi như pha, chớ ở đó mà lo, ma với cỏ cóc ken!!! - Tía con ăn nói dử dằn vậy hả? - Chớ sao! - Tía con, quá đã...hí hí...Bác Ba Phi nói tiếp như vầy với Tư Rèn - Ông già bình thuận đó, nói lúc trước, có một ông thầy nói còn dử hơn Tía mầy, nhưng khi thầy đụng trận, con ma âm binh đó, nó biến thành con quỉ 1 giò... - Tời tời...Ba Phi nói tiếp - Chỉ 1 giò thôi, vậy mà, nó rượt lảo thầy đó chạy…té hầm, bà con tưởng ông thầy qui tiên rồi, mộ phật!!! Ông già khác, đứng kề bên, nói thêm - Nè nè...tui nói 3 ông đừng buồn Ông ốm nhom, ông Hên đó Tư, ông ốm nầy mà thầy bà gì trời? Xin lổi, còn ông sồn sồn kia; là Tía mầy đó, lảo nầy gan góc gì mà ca với kệ, còn ông, là tao đó Tư, ông đó nói như vầy=>>>xin lổi, tui nói cho ông biết, tui chắc cú là ông nói dóc tàn canh bí đao, tui...nghía là biết, tui bảo đảm vậy luôn!!! - Úi trời trời! Mới gặp, mà ông đó, đã ”thấy” Bác Ba nói dóc, hả trời!? - ...ai biết đâu nà, hìhì...Bà Sáu thấy Ba Phi cười hìhì, thì nóng gà, hét - ...nè...nè, gặp người lạ, mà Bác Ba Phi ”trổ tài” làm chi, sao ngu vậy chớ? - Kệ tui nhe, tui nói dóc, cũng hỏng có chết thằng tây nào nhe...héhé... - Rồi sau đó? Tư Rèn hỏi tiếp. Ba Phi nói - Mấy ông đó bỏ đi, vì khi-dể tụi tao ra mặt, ông Hên với tía mầy nóng như hơ, nên quyết lòng triệt con ”ma bình thuận”, để mấy ông đó, biết tài nghệ thầy Hên...siu tới bực nào! - Quá đã, cứ hể hỏng ai chịu thua là con mê rồi! - Hì hì...Ba thằng tao bàn tính, nếu con ma đó tinh ranh, thì tụi tao chơi kiểu khác…nó sẻ bó tay, chịu chết, tao bảo đảm luôn, đó Tư...?! - Bác Ba...chơi kiểu gì??? - Tao dụng-kế Tôn Ngô, là lấy kế Tôn Tẩn với Ngô Khởi, tao...gộp làm một, thì chỉ có ...tề thiên thòng xuống, thì may ra, mới cứu nổi con ma thần sầu nầy?! - Bác Ba ”gộp-kế” cách nào, chỉ con, để con học lóm, được hôn? - Tao gộp “điệu hổ ly sơn kế“ vô “ve sầu thoát xác kế“ với một xí “dương đông kích tây kế“, cho mầy hay, chơi kế-gộp nầy, thì Lốc Cốc Tử Tiên Sanh, nếu...biết, cũng bó tay. Bà Sáu chủ quán nghe Ba Phi nói tía lia, nhưng nghe...chả ra làm sao, liền hỏi gắt - Tóm lại, là “bộ ba“ của Bác Ba Phi...làm cái giống gì, ở ngoải, hè? - ...híhí...giả bộ đi ăn mày...=>>>...để dương đông kích tây!!! - Tời tời!!! Dồn cục kế độc trong binh pháp Tôn Ngô, nghe thấy ghê, tưởng sao Cả đám đi ăn mày!? Con nghe, con nói thiệt luôn, là con “oải” Bác Ba quá nha. - Mầy sao lộn xộn quá! Tao kể tiếp nè… Bà Sáu nghe cho đã, bất ngờ, nói vọng lên từ dưới bếp - Giỏi quá he, nói lòng vòng...thì cũng đi ăn mày, xời! Bà Sáu nói sóc tiếp - Sao hỏng đi mua ve chai cho có vẻ quí-sờ-tộc, hay văn minh chút chút, là mua tỉn dạo lòng vòng, rồi ra Phan Thiết bán lại cho hảng nước mắm? - Ờ ờ…Sao Bác Ba hỏng mua dạo tỉn nước mắm? Bác Ba vụng tính quá! Theo con, con mua tỉn nước mắm, đem giao cho chành, ăn tiền cò là xong! - Tao nói cho mầy với chị Sáu nghe mà chán Tỉn nước mắm ở đây, ông Chín Tiều thầu mua hết rồi! Mối ruột của ổng mà! - Trời đất, ông Chín Tiều cũng thò tay ra tới ngoải hả trời? Tư Rèn có vẻ thất vọng, sau đó, nó nói - Nhưng mà, có cái nầy, con nói Bác Ba đừng buồn, mà dù Bác Ba có buồn...thì thây kệ Bác Ba, Bác Ba có chửi...con cũng nói, bực mình quá mà!!! - ???…ý cha cha…bực cái gì, nói tao coi... - Bác Ba dở tệ, đụng chuyện bí, cứ làm ăn mày, sao hỏng làm...cái khác? - Ừ, Ba Phi làm ăn mày kỳ cục quá mậy Tư? Bà Sáu nói theo. Ba Phi nóng mặt - Làm cái khác, là làm cái giống gì, mầy nói tao nghe thử, hử??!! - Làm người đui!!! Bà Sáu hỏng chịu, nói - Trời...Tư ơi Tư, mầy bày cho Ba Phi làm người đui, thì còn ra cái thể thống gì? - Chớ con bực Bác Ba cứ làm ăn mày hoài! Đui thử một lần, coi được hong? Ba Phi nghĩ thầm trong bụng Đúng là mình cứ hể ”bị bí” là làm ăn mày, thôi được… - Nè Tư, tụi tao tính làm thằng đui, còn làm ăn mày, là do tía mầy chỉ vẻ, đó đa. - Sao??? - Tía mầy nghe tao bàn làm thằng đui, thì ổng xanh gân… - Sao...ậy??? - Ổng nói, tao xúi bậy, lở tổ trác, bị đui luôn=>>>thì có nuớc đi ăn mày=>>>vậy thà làm ăn mày trước=>>>thì sướng hơn...hehehe... - Trời!!! - Sau đó, tía mầy sợ đui thiệt, ổng trốn về quê… - Ủa ủa... - Tía mầy...chơi độc, trốn mất, bỏ lại hai thằng tao, bơ vơ nơi xứ lạ, quê người! - …!?!... - Sau đó, tao biểu ông Hên đóng vai thằng đui… - Còn Bác Ba? - Tao làm thằng thấy đường!!! - Trời! Nhưng sao Bác không đui cho trọn gói?! - Tao phải thấy đường để dắt thằng đui đi chớ ụa! Nhưng mà Tư ơi, hai thằng đương mạnh giỏi, mà đi xin ăn, tao cảm thấy nhục nhả gia tiên quá cở! - …?!?...Vậy có đi ăn mày hôn... - Thầy Hên “cứu nhân độ thế“ thì phải hy sanh bổn mạng nhe, đời mà! - Bác Ba đui làm sao...cho Bà Sáu bằng lòng, chớ đui mà con mắt hí hí, ai tin? - Ai nói mầy...hí hí, tao cho ông Sáu Hên đui thiệt luôn! - Trời trời...làm sao...để đui? - Tao lấy mủ xoài trộn với mủ cây sung… - Là loại “mủ cây“ Bác Ba chỉ con, để trét trên nhánh cây cho chim dính cẳng? - Ờ! Tao trét ngử đó vô mắt lảo Hên, hai mí nó dính cứng ngắt, tao dắt lảo ra chợ, bà con tưởng ông Hên đui giả, áp nhau banh mắt, coi có đui thiệt...mới cho tiền! - Banh nổi hong? - Banh ra sao nổi? Bửa đó, lảo Hên chịu đau, còn...tao lượm tiền trong lon sửa bò!!! - Vậy là trúng mánh rồi. - Không ai nghi đui-giả, đúng là chơi kế độc, thì con ma bình-thựng...tận số rồi. - Tao dắt ông Hên đi một vòng...thám thính, rồi về, lúc về, ổng đá vô cục đá, nên tróc cha nó móng cẳng, tới nhà, thầy Hên banh thử mí mắt, thì…chết cha mồ tổ rồi. - Sao...sao...!?! - Ông Hên banh muốn tét mí mắt, mà nó...hỏng nhả, lảo Hên chửi tao quá ể! - Chửi Bác Ba hả, chửi sao, nói nghe... - Chủi vầy Tao đui luôn là mầy chết cha với tao, mầy nói dóc, làm tao tiêu dên...hu hu...=>>>...mắc toi mầy, suôn dịch mầy, bà xẹt cho...suôn toi mầy luôn...huhu. Tự nảy giờ Bà Sáu nghe, mà nóng ruột dùm cho ông Sáu Hên - Cẳng chim dính mủ, gở hỏng ra, thì mắt ông Hên banh sao nổi, nè trời, rồi sao... - Tui định mua…lưởi lam cạo râu, về rọc! - Trời! - Ông Hên nghe vậy, chửi tui quá trời luôn! - Chửi nửa hả? Chửi sao? - Mầy là thằng tàn ác, mắt tao mầy trét mủ cây, rồi lấy lưởi lam, tính rọc cái rẹt là xong hử, tao chết á hả, tao thành con quỉ 1 giò, tao trù ẻo mầy, cho mầy què giò...hu hu… - Anh Sáu bình tỉnh, Ba Phi nói, từ từ mình tìm cách gở. - Gở ông nội mầy...huhu và huhu...Húhú... - Rồi sau đó? Bà Sáu hỏi. - Bà con tưởng...oánh lộn, ào tới coi, tui hoản hồn kinh, cỏng thầy Hên chạy mất… - Cỏng thầy Hên chạy đi đâu, nói mau??? Ba Phi...nghía ra, thấy Sáu Hên tà tà đi tới, nên không biết nói cỏng thầy hên...chạy sao cho có “văn minh“ một xí. Rồi cũng bởi thấy thầy Hên, nên thằng Tư Rèn hỏi dồn - Bác Ba cỏng ông Sáu chạy đi đâu? Sáu Hên bước tới, Tư Rèn hỏi luôn - Ông Sáu, Bác Ba nói, cỏng ông Sáu, vậy mà có cỏng hong? Sáu Hên nói bừa - ...hì hì...cỏng hà rầm...nhưng tao huỹnh hồi nào, mà cỏng tao nửa đó, hả Ba Phi? - Thì thì…ca ca...cái cái...Thấy Ba Phi cà lăm, thầy Hên nói...có vẻ căng - Tao kiếm mầy thấy bà, té ra mầy nói dóc ở đây, Ba Phi mầy...làm khổ tao với thằng Hùm, mầy thiệt là báo hại, tụi tao...quá khổ với mầy!!! - Chuyện gì vậy ông Sáu? Tư Rèn hỏi, thầy Hên nói - Ba Phi phải về ngay bây giờ, về ngay tức khắc, mầy quá lắm rồi, về ngay... - Có chuyện gì vậy ông Sáu? Bà Sáu Mập lo lắng. Sáu Hên càng nói, càng làm cho sự việc trở nên to tát khôn lường - Nếu không có chuyện tối hệ trọng, tui đâu có rảnh để đi kiếm thằng mắc dịch nầy, mầy về ngay Ba Phi, chờ lâu, tao không bảo đảm...tánh mạng đâu nhen. - Chuyện gì mà...nghe thấy ớn quá cở vậy chời...!?!? Ba Phi hết hồn. - Mầy về, khắc biết, mầy tận số rồi Ba Phi… - Thôi chú Ba về đi, coi có chuyện gì! Sáu Hên nắm tay Ba Phi chạy ào ra khỏi quán, phải nó rỏ, là chạy toé khói, coi bộ chuyện nầy lớn lao thiệt tình, Sáu Hên mệt thở muốn hỏng ra hơi, Ba Phi mắt đổ hào quang, cũng thấy rung trong bụng, đang chạy, Ba Phi kêu ngừng, bèn hỏi - Chuyện gì vậy, nói lẹ coi, tui rung quá... - Chuyện quan trọng, Sáu Hên nói, không có mầy, ắt không xong! - Mà chuyện gì mới được chớ? - Thằng Hùm đợi mầy ở nhà tao, phải về ngay…kẻo muộn!!! - Chuyện gì vậy trời, chuyện gì vậy anh Sáu? Tui rung quá… - Thằng ngu thiệt tình, mầy hỏng biết chuyện gì mà thằng Hùm chờ mầy? - Thiệt tình, hỏng biết, tui biết, tui...cùi liền… - He he he... - Ca ca...cái gì, mà thằng Hùm chờ tui??? Ba Phi tình thiệt, hỏi thiệt. Sáu Hên nói thiệt - NHẬU !!! - Má ơi... - Muốn nhậu...đủ tay, tao kiếm mầy mệt quá. - Hehehe... Do vậy, do thầy bùa Hên...sợ đui, nên thầy Hên chưa trị được Ma Bình Thuận... Chớ nếu không=>>>?!>>>biết đâu chừng>>>...vậy cho nên, tới bây giờ... Chuyện Ma Bình Thuận, vẩn còn ”tiếng”...=>>>là vậy đó...?! -Chú thích *** Quí Độc Giả muốn biết Bác Tám Nhểu, em út Bác Ba Phi...nói dóc cở nào, thì... Xin vô đề mục Buồn Vui Quân Trường trong trang Web nầy. Tựa bài nằm trong phần Ngư Tiều Canh Mục, đó là Canh Bài Lảo Nông. Và...coi thêm bài Đánh Cờ, khắc rỏ Bác Tám, em Bác Ba Phi.

chuyện ma bình thuận