Những bài văn mẫu hay về Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan Lớp 7 , 0. Lớp 12; Lớp 11; Lớp 10; Lớp 9; Lớp 8; Lớp 7; Lớp 6; Lớp 5; Lớp 4. Tổng hợp;
Trên đây là dàn ý phân tích đối với bài thơ Qua Đèo Ngang mà Đọc tài liệu tổng hợp được, mong rằng với dàn ý này các em sẽ hiểu và hoàn thiện được bài văn phân tích, cảm nghĩ về tác phẩm này. Hướng dẫn lập dàn ý phân tích, cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan chi tiết nhất để các em dễ dàng hoàn thiện bài văn của mình
Tiến trình bài học (34 phút) Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ Văn Lớp 7 - Bài 8: Qua đèo ngang (Bà huyện Thanh Quan)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên. Văn bản: QUA ĐÈO NGANG Bà Huyện Thanh Quan I. MỤC TIÊU 1.Kiến thức: Giúp HS - Sơ giản về tác
Những bài làm văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn cảm nghĩ về bài "Qua đèo Ngang. Khi cảm nghĩ, các bạn cần lưu ý phải dựa vào câu chữ, tránh xuyên tạc nội dung, đồng thời, các bạn có thể bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của cá nhân để bài viết thêm sinh động
Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài "Qua Đèo Ngang". Bài thơ tả
Phân tích: Giải thích từ ngữ, câu Nghệ thuật ( giọng điệu, không gian, thời gian, từ ngữ, hình ảnh, phép tu từ… và tác dụng để làm rõ nội dung) Nội dung diễn đạt Liên hệ tác giả, hoàn cảnh xã hội Liên hệ so sánh văn học, cảm xúc của người phân tích. Câu kết đoạn và chuyển ý ( tổng hợp) * LƯU Ý KHI VIẾT PHẦN THÂN BÀI
NHB1. I. DÀN Ý1. Mở bài– Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên ngăn cách giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây cũng là một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng.– Rất nhiều thi sĩ đã làm thơ tả cảnh đèo Ngang, trong đó nổi tiếng nhất là bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.– Tác giả sáng tác bài thơ này trong dịp từ Thăng Long vào Huế để nhậm chức Cung trung giáo tập nữ quan dạy dỗ nghi lễ cho các cung nữ.– Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm trạng cô đơn và hoài niệm về một thời đại phong kiến huy hoàng đã qua, không bao giờ trở Thân bài* Hai câu đề+ Câu thứ nhất Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.– Thời điểm nữ sĩ đặt chân tới đèo Ngang là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống.– Cảnh vật rất dễ gợi buồn trong lòng người lữ thứ.+ Câu thứ hai cỏ cây chen đá, lá chen hoa.– Miêu tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, tràn đầy sức sống của đèo Ngang qua điệp từ chen và hai vế đối cỏ cây chen đá lá chen hoa.– Cảnh đẹp nhưng vẫn nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước.* Hai câu thực+ Câu thứ ba Lom khom dưới núi tiều vài chú.– Đảo ngữ trong câu đặc tả dáng vẻ mấy tiều phu kiếm củi sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ.+ Câu thứ tư Lác đác ven sông chợ mấy nhà.– Hình ảnh ngôi chợ là bộ mặt của cuộc sống một vùng nhưng ở đây, chợ chỉ là vài túp lều tranh xiêu vẹo ven sông.– Không khí vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật.* Hai câu luận+ Câu thứ 5 Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc.– Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng.– Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.– Nghệ thuật đối câu câu 5 >< con người nhỏ bé.+ Cậu thứ 8 Một mảnh tình riêng ta với ta.– Nét tương phận càng tô đậm sự cô đơn, buồn bã trong lòng người.– Nỗi buồn không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi.– Âm hưởng, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài ngậm ngùi, nuối Kết bài– Qua đèo Ngang được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ.– Thể thơ Đường luật sang trọng đã trở nên gần gũi, dễ hiểu bởi ngôn ngữ trong sáng và những hình ảnh dân dã, quen thuộc.– Bài thơ có sức sống vĩnh cửu trước thời gian và trong lòng nhiều thế hệ yêu thơ.
Hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ “Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan gợi cho người đọc một nỗi buồn vô hạn. Trên cuộc hành trình dài đặc từ Thăng Long vào xứ Huế, sau bao vất vả, mệt nhọc, dừng chân đứng lại chốn đèo Ngang nữ sĩ đối diện với cái bao la, bất diệt của vũ trụ "trời, non, nước". Trời thì xa, non thì cao mà nước thì sâu thăm thẳm. "Dừng chân đứng lại" để một lần nữa bao quát lại cảnh vật quanh mình. Dừng chân đứng lại để hỏi xem đâu người tri âm, tri kỉ. Vậy mà Bà Huyện Thanh Quan chỉ nhận lại được từ thẳm sâu vũ trụ cái rộng lớn, bát ngát của "trời, non, nước". Vậy thì giờ đây, giữa đất trời chốn đèo Ngang này chỉ còn có "Một mảnh tình riêng, ta với ta". “Một mảnh tình riêng” ấy là nỗi buồn người xa xứ, là tâm sự về nỗi đau chia cắt đất nước những ngày xưa, là nỗi buồn thương cho cảnh đất nước hiện tại hay chính là cảnh đìu hiu vắng vẻ nghèo khổ chốn đèo Ngang này vậy. Cụm từ “ta với ta” ngân lên như đập vào vách núi rồi vọng lại trong niềm xót xa. buồn tủi “Ta với ta” là chỉ một mình mình với một mình mình. Một tấm tình cô đơn không ai chia sẻ.
Phân tích bài Qua đèo ngang – Ôn thi HK, thi HSG lớp 7 do Kiến thức tổng hợp chắt lọc từ các tài liệu chuẩn – đặc sắc nhất. Tổng hợp 6 mẫu mở bài – kết bài hấp dẫn lấy điểm trên 8. Cùng đầy đủ dàn ý, mẫu bài giúp học sinh tham khảo và ôn tập tốt hơn, mời theo dõi! Nội dung bài viết1 Giới thiệu tác giả, tác phẩm qua đèo Tác Tác Bố cục phân tích bài Qua đèo Đặc sắc nội dung và nghệ thuật2 Dàn ý phân tích bài Qua Đèo Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Mở Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Kết bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm qua đèo ngang Bà huyện Thanh Quan là nữ thi sĩ nổi tiếng nhất XVIII – XIX của Việt Nam. Nhân vật từng nhận không ít những lời khen “có cánh” của các nhà phê bình văn học, như Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học “Ở tất cả những bài thơ viết bằng luật Đường của bà, niêm luật đều chặt chẽ mà không có cảm giác gò bó, xếp đặt, câu thơ trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu. Bà huyện Thanh Quan là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nước ta. Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu “Những bài thơ Nôm của bà truyền lại có ít, phần nhiều là thơ tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức, thường nghĩ tới nhà, tới nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện.” Bà Huyện Thanh Quan là nữ thi sĩ tài hoa của thế kỷ XVIII – XIX Tác giả – Bà huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở Thăng Long và là người Đàng ngoài thuộc phủ chúa Trịnh. – Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ học rộng tài cao, nổi tiếng nhất ở thế kỉ XVIII – XIX. – Quê gốc của bà ở Nghi Tàm – Tây Hồ – Hà Nội, là người sinh ra thuộc chúa Trịnh nhưng lại có cơ duyên với họ Nguyễn. Bà được chúa Nguyễn ban họ trong lần vào cung Phú Xuân. – Đặc điểm thơ tiêu biểu của Bà huyện Thanh Quan là nét tâm sự hoài cổ. Thơ của bà xuất hiện nhiều hình ảnh thiên nhiên, thường là lúc trời chiều. Làm gợi một nỗi niềm nhớ nhung khó tả, cùng tâm trạng buồn man mác. – Cảnh trong thơ được khắc họa như một bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. – Hoàn cảnh xa xứ một đi chưa trở lại đã trở thành nỗi niềm trở đi trở lại trong nhiều thi phẩm của nhà thơ. Mỗi bức tranh tả cảnh đều chất chứa một tình cảm nhớ quê nhà da diết. – Đối với bà, cái đẹp là cái dĩ vãng còn hiện tại lại vắng vẻ, hiu quạnh. – Vì vậy, Bà huyện Thanh Quan còn được biết đến là nhà thơ hoài cổ – hoài thương điển hình trong văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm – Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan được sáng tác trong lần bà vào Huế làm chức cung trung giáo tập để dạy công chúa và cung phi. Trên đường vào kinh nhận chức, khi qua Đèo Ngang, “tức cảnh sinh tình” nên bà đã sáng tác bài thơ. Đèo Ngang là địa danh nổi tiếng thuộc dãy núi Hoành Sơn, phân cách địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Hình ảnh con đèo trở thành cảm hứng văn chương của không ít thì nhân như Nguyễn Khuyến có bài Qua Hoành Sơn, Nguyễn Thượng Hiền có Hoành Sơn xuân vọng, Cao Bá Quát có Đặng Hoành Sơn,… Thế nhưng, “Qua Đèo Ngang” vẫn là tác phẩm được nhiều người yêu thích và phổ biến hơn cả khi viết về địa danh này. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan – Tìm hiểu phân tích bài Qua Đèo Ngang Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường Luật 8 câu 7 chữ theo luật thơ Đường, được viết bằng chữ Nôm. Gieo vần chân chữ cuối ở mỗi câu thơ tà, hoa, nhà, gia, ta Nghệ thuật đối câu 3 – 4, 5 – 6 Niêm luật chặt chẽ về Bằng – Trắc B – T Tiếng thứ 2 của câu 1 là thanh bằng -> Luật B Tiếng thứ 2 của câu 1 là thanh trắc -> Luật T Tiếng 2 trùng thanh với tiếng thứ 6 và khác thanh với tiếng thứ 4 Các tiếng 1, 3, 5 bằng trắc tùy ý Xem thêm Cách xác định các loại phương thức biểu đạt trong văn học Bố cục phân tích bài Qua đèo ngang Phân tích bài Qua đèo ngang có bố cục 4 phần, tương ứng với “Đề – thực – luận – kết”. Mỗi phần là hai câu thơ theo thứ tự Đề Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, / Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Thực Lom khom dưới núi, tiều vài chú / Lác đác bên sông, chợ* mấy nhà Luận Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, / Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia Kết Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, / Một mảnh tình riêng, ta với ta chợ* Thơ có nhiều dị bản khác nhau, trong đó chữ “chợ” hay “rợ” trong câu thơ gây nhiều tranh cãi nhất. Bài thơ trên dùng “chợ” lấy theo nguyên bản thơ đưa vào SGK Ngữ Văn 7. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “rợ” hợp lý hơn “chợ”. Vì trên đèo thì không thể có chợ, mà nếu có thì không thể heo hút “mấy nhà” được. Còn “rợ” là tiếng địa phương Hà Tĩnh chỉ “nhà tạm” nghe hợp lý hơn. Đặc sắc nội dung và nghệ thuật – Nội dung Nội dung phân tích bài Qua Đèo Ngang Miêu tả bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người nơi đèo Ngang đẹp, hoang sơ nhưng gợi buồn man mác. Bộc lộ tâm trạng Hoài cổ nhớ nước, thương nhà da diết, nỗi buồn thầm lặng cô quạnh. – Nghệ thuật Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc Sử dụng hàng loạt biện pháp tu từ nhân hoá, đảo ngữ, điệp từ, chơi chữ điêu luyện Miêu tả kết hợp biểu cảm Lời thơ trang nhã, uyên thâm, âm điệu trầm lắng giàu cảm xúc Bài viết liên quan khác Các biện pháp tu từ thường gặp trong Ngữ Văn Giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc Dàn ý phân tích bài Qua Đèo Ngang Trước khi phân tích bài Qua Đèo Ngang. Ta cần hiểu thế nào là Đề – Thực – Luận – Kết? Lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên. Nói ngắn gọn hơn, chúng tương ứng với “Khai – Thừa – Chuyển – Hợp”. Mặc dù khác nhau cách gọi nhưng chúng hoàn toàn tương tự về ý nghĩa và cách phân chia niêm luật. Hai câu Đề Câu 1 gọi là câu phá đề, Câu 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau Hai câu Thực Giải thích rõ ý đầu bài Hai câu Luận Bình luận 2 câu Thực. Hai câu luận để diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng Hai câu Kết Khái quát toàn bộ nội dung bài theo chiều mở rộng và nâng cao Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Mở bài MB1 Khi nhắc tên hai nữ thi hào nổi tiếng nhất thơ ca trung đại Việt Nam, chắc chắn nhiều người sẽ nghĩ ngay về hai cái tên quen thuộc. Đến với thơ Hồ Xuân Hương, ta hình dung ngay đến sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá. Ta lại bắt gặp phong thái điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan. “Qua Đèo Ngang” là tiêu biểu cho phong cách ấy, khi lột tả sâu sắc niềm nhớ quê hương và nỗi lòng người con xa xứ. MB2 Bà Huyện Thanh Quan là một trong những câu bút vàng của nền văn học Việt Nam TK XVIII – XIX. Nổi tiếng là nữ thi nhân nhạy cảm lại thông tuệ, xuất khẩu thành thơ. Trong chuyến đi xa vào kinh đô Huế, vẻ đẹp núi non cùng nỗi niềm xa nhà đã thôi thúc nhà thơ sáng tác thi phẩm “Qua Đèo Ngang”. Đây được xem là một trong các tác phẩm tiêu biểu, đại diện cho tài văn chương và phong thái đoan trang, lối văn trang nhã, điêu luyện của Bà huyện Thanh Quan. MB3 “Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi Bên non cỏ nội tiễn đưa người Ai tài kéo nước nghìn năm lại Trăm trận còn tên một luỹ thôi” Lên núi Hoành Sơn – CBQ Đó là những chiêm nghiệm sâu sắc về thực tế nghiệt ngã của sự mất. Còn là tự lý giải bao nghịch lý đường đời trên hành trình của nhà thơ Cao Bá Quát. Khi ông đứng trên non cao vời vợi mà nhìn về kiếp người. Cùng được lấy cảm hứng khi đứng trước “Đèo Ngang” nổi tiếng của Việt Nam, Bà huyện Thanh Quan lại nhuốm buồn cho khung cảnh nơi đây bằng khúc nhớ quê của kẻ tha phương. “Qua Đèo Ngang” trở thành nỗi niềm chung của những người con xa xứ. Cũng là tiêu biểu cho phong cách tâm sự hoài cổ của nữ thi nhân. Bài thơ Qua Đèo Ngang Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu đề ” Bước tới… chen hoa” – Không gian cảnh trên Đèo Ngang – Thời gian nghệ thuật lúc xế tà đã về chiều hay còn gọi là lúc hoàng hôn => Thời gian gợi buồn, nỗi nhớ làm tăng thêm nỗi cô đơn trong lòng tác giả trên đường lữ khách tha hương – Cảnh vật cỏ cây, lá, đá, hoa => Động từ “chen’’ điệp 2 lần khắc họa sức sống cỏ cây ở một nơi hoang dã, vô trật tự, hoang vu. Dưới hoàn cảnh khắc nghiệt, những mầm sống phải chen lấn nhau để tồn tại. Cảnh tuy đầy đủ hoa lá, màu sắc nhưng lại càng tô đậm nét hiu hắt, tiêu điều. Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu thực “Lom khom… mấy nhà” – Nghệ thuật đối, đảo ngữ, lặp cú pháp – Tác dụng Nhấn mạnh tính chất đặc điểm của con người và cảnh vật – Sử dụng hàng loạt từ láy Lom khom, lác đác – Tác dụng Xoáy sâu vào hiu quạnh, thưa thớt đến buồn cô quạnh. Nghệ thuật chấm phá khiến con người và những biểu hiện của sự sống con người trở nên ít ỏi, nhỏ bé giữa thiên nhiên mênh mông. Cũng thấy được điểm nhìn từ xa của tác giả, cho thấy bước chân nặng trĩu nỗi niềm khi dần xa quê hương của thi sĩ. Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu luận “Nhớ nước… gia gia” – Nghệ thuật đối, đảo ngữ nhớ – thương lên trước, lấy động tả tĩnh, đồng âm, ẩn dụ tượng trưng – Tác dụng Nhấn mạnh tâm trạng của tác giả, gợi nỗi buồn khổ, khắc khoải, triền miên không dứt. – Tiếng chim kêu Vừa là yếu tố nghệ thuật xoáy sâu vào sự vắng lặng trong khung cảnh. Vừa là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng để bộc lộ chiều sâu tâm trạng, nỗi nhớ nhà khôn nguôi. Tiếng chim quốc ẩn dụ nỗi niềm nhớ nước quốc = nước Tiếng chim đa ẩn dụ tâm trạng nhớ nhà gia = nhà – Ý nghĩa Đó là tiếng lòng tha thiết, da diết của nhà thơ Nhớ nhà, quê, nhớ quá khứ của đất nước, nhớ kinh thành Thăng Long => Tiêu biểu cho nét tâm trạng hoài cổ trong thơ Bà huyện Thanh Quan. Đánh giá thơ của Bà huyện Thanh Quan Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Hai câu kết “Dừng chân… với ta” – Biện pháp đối ý Trời, non, nước >< một mảnh tình riêng Trời, non, nước Đại diện cho thiên nhiên rợn ngợp, mênh mông, lớn lao Một mảnh tình riêng Thế giới nội tâm của cá nhân nhân vật trữ tình buồn nhớ da diết, cô đơn – Ý nghĩa “Mảnh tình riêng” Tình riêng là chỉ tình cảm sâu kín. Đó không phải là tình yêu đôi lứa mà là tình cảm thiêng liêng với quê hương, đất nước của nhà thơ. – Cụm từ “ta với ta” Tuy 2 mà 1, chỉ để nói một người, một nỗi buồn, một nỗi cô đơn không ai sẻ chia, hoàn toàn trong thế giới cô độc. – Kết luận Hai câu thơ thể hiện hình ảnh một người phụ nữ nhỏ bé, cô đơn giữa đất trời bao la. Đây là những ý thơ cực tả về sự cô độc, buồn đau. Cũng là nhớ tiếc về quá khứ, nỗi thương nước nhớ nhà của nhà thơ. Phân tích bài Qua Đèo Ngang – Kết bài KB1 Lời thơ xao xuyến, bồi hồi, chan chứa bao nỗi niềm nhớ thương quê hương. “Qua Đèo Ngang” đã trở thành tiếng lòng chung của những người con xa xứ. Cũng là áng thơ tiêu biểu cho nghệ thuật chấm phá, ước lệ đặc trưng của thơ ca trung đại. Tiêu biểu cho phong cách văn chương vừa thông tuệ sâu sắc, vừa thấm đượm tình cảm, thoang thoải màu buồn của Bà huyện Thanh Quan. Hướng dẫn xây dựng MB – KB hấp dẫn KB2 Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ. Đồng thời gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp của con người. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa nhà. Tâm trạng chung của mỗi người khi lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người. KB3 Với giọng điệu tha thiết, tâm tình, lúc trầm bổng đan xen. Cùng với các biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo, lấy động tả tĩnh, phép đảo ngữ, điệp ngữ… Mang đến cảm xúc dạt dào đi sâu vào lòng người đọc trong bài “Qua Đèo Ngang”. Qua đó, ta thêm hiểu tấm lòng của người con khi xa quê để càng thêm yêu quê nhà. Trên đây là bài Phân tích bài Qua đèo ngang – Ôn thi HK, thi HSG lớp 7 do Kiến thức tổng hợp chắt lọc từ các tài liệu chuẩn – đặc sắc nhất. Đừng quên Like và Share để nếu thấy bộ tài liệu này hữu ích cho phần ôn tập chương trình học Ngữ Văn! Nguồn Kiến thức tổng hợp
Văn mẫu lớp 7Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan để thấy được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của nữ sĩ. Mời các bạn tham khảo bài văn mẫu để hoàn thiện bài viết của mình tốt tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 1Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ "Qua đèo Ngang" tiêu biểu cho phong cách thơ "Qua đèo Ngang" được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo NgangBước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, lá chen hoaKhông gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhàĐến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo sử dụng hai từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậyNhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia giaĐiệp âm "con cuốc cuốc" và "cái da da" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và gia gia kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bông nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả "nhớ nước" và "thương nhà". Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểmDừng chân nghỉ lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với taChỉ bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng". Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời thơ "Qua đèo Ngang" với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 2Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa cảm yêu mến, muốn được bảo vệ hạnh phúc tự do cho mình, cũng không hề kém cạnh các đại nam nhi. Đối với bà Huyện Thanh Quan tuy không đi ra chiến trường chiến đấu, nhưng bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước."Qua đèo ngang" gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ "Qua đèo ngang" được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh."Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa"Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc "bóng xế tà". Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có "cây cỏ chen lá, đá chen hoa" hiu quạnh. Điệp từ "chen" khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở."Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà"Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. "người tiều phu" đi lượm củi vẫn tạo cảm giác vô định, "lom khom" từ ngữ nhấn mạnh thể hiện sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn. Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia"Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà?Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng."Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta"Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày "ta với ta" nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi thơ "Qua Đèo Ngang" vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 3Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnhBước đến đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoaHai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con ngườiLom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhàNhững tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác bài thơ Qua đèo Ngang ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh QuanVideo Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.....................................Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn dàn ý và bài văn mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Hy vọng tài liệu sẽ giúp các em nắm được các ý chính cần triển khai trong bài, cũng như biết cách vận dụng lý lẽ để xây dựng cho mình những bài văn hoàn chỉnh, từ đó học tốt Ngữ văn 7 tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm các tài liệu khác như Ngữ văn lớp 7, Soạn bài lớp 7, Học tốt Ngữ Văn 7, Giải Vở bài tập Ngữ Văn và các dạng đề thi học kì 1 lớp 7, đề thi học kì 2 lớp 7 cũng được cập nhật liên tục trên
a. Mở bài – Giới thiệu tác giả Bà Huyện Thanh Quan. – Giới thiệu tác phẩm “Qua Đèo Ngang”. b. Thân bài – Hai câu đề + Câu thứ nhất Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Thời điểm nữ sĩ đặt chân tới đèo Ngang là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Cảnh vật rất dễ gợi buồn trong lòng người lữ thứ. + Câu thứ hai cỏ cây chen đá, lá chen hoa Miêu tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, tràn đầy sức sống của đèo Ngang qua điệp từ chen và hai vế đối cỏ cây chen đá lá chen hoa. Cảnh đẹp nhưng vẫn nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước. – Hai câu thực + Câu thứ ba Lom khom dưới núi tiều vài chú Đảo ngữ trong câu đặc tả dáng vẻ mấy tiều phu kiếm củi sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. + Câu thứ tư Lác đác bên sông chợ mấy nhà Hình ảnh ngôi chợ là bộ mặt của cuộc sống một vùng nhưng ở đây, chợ chỉ là vài túp lều tranh xiêu vẹo ven sông. Không khí vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật. – Hai câu luận Nhớ nước đau lòng con quốc quốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia + Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng. + Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai. + Nghệ thuật đối câu câu 5 > + Điều băn khoăn lớn nhất của nữ sĩ không ngoài chuyện của quốc gia, của thời đại. – Hai câu kết + Câu thứ 7 Dừng chân đứng lại, trời, non, nước Cảnh đẹp của đèo Ngang thật hùng vĩ, khiến nữ sĩ phải dừng chân để chiêm ngưỡng, để thu nhận vẻ đẹp kì diệu ấy vào tâm hồn. Giữa cảnh vật và lòng người có nét tương phản thiên nhiên cao rộng > + Câu thứ 8 Một mảnh tình riêng ta với ta Nét tương phản càng tô đậm sự cô đơn, buồn bã trong lòng người. Nỗi buồn không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi. Âm hưởng, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài ngậm ngùi, nuối tiếc. c. Kết bài – Qua đèo Ngang được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ. – Thể thơ Đường luật sang trọng đã trở nên gần gũi, dễ hiểu bởi ngôn ngữ trong sáng và những hình ảnh dân dã, quen thuộc. – Bài thơ có sức sống vĩnh cửu trước thời gian và trong lòng nhiều thế hệ yêu thơ. 2. Phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang “Qua đèo Ngang” là một tác phẩm nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét. Mở đầu bài thơ là hai câu đề Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá đá cheo hoa Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo Ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là trời đã quá buổi chiều và đang chuyển sang tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây? Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống. Vừa đặt chân đến chốn đây cũng là lúc mặt trời đổ bóng. Thời gian lúc này là “bóng xế tà” là khoảng thời gian kết thúc của một ngày. Xưa kia văn thơ trung đại người ta thường chỉ lấy buổi chiều làm hình ảnh trong thi phẩm chỉ khi lòng người mang đậm nỗi buồn. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, phải chăng là nỗi lòng bà huyện Thanh quan tài năng kia cũng mang một nỗi niềm về thế thời. Từ “chen” được điệp đến hai lần trong một câu thơ như tăng thêm chất hiu quạnh hơn. Nghệ thuật tiểu đối trong cùng một câu tạo nên nhịp thơ đăng đối hài hoà. Thêm đó lại càng làm bức tranh chiều tăng thâm phần hiu quạnh. Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác”, “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật. Hai câu luận là nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh giang sơn đất nước đang ngày một lụi tàn Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Tiếng kêu của con quốc hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ bắt nguồn từ điển tích xưa về vua Thục vì mất nước mà hóa thành con cuốc chỉ biết kêu những tiếng đau thường. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều trở nên dịu vợi. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Thương nhà ở đây có lẽ là nỗi nhớ thương đất nước trong quá khứ hào hùng hay cũng là thương cho sự đổi thay, sự lụi tàn của quê hương. Những xúc cảm của thi sĩ được bộc lộ một cách trực tiếp bằng hai câu luận. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp với biện pháp nhân hóa ” đau lòng” “mỏi miệng” cùng chuyển đổi cảm giác từ nỗi lòng thành tiếng thương tạo ấn tượng mạnh đã cho ta thấy bức tranh ấy không chỉ là cảnh vật mà còn là bức tranh tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan với tình yêu thương nước nhà. Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Non nước giờ đây hiện hữu trước mắt nhưng thay vì thấy sự hùng vĩ tráng lệ thì ta lại vẫn buồn vì những chữ “dừng chân đứng lại”. Phải chăng cái dừng chân ấy có phải là cái dừng chân, cái dáng đứng bất lực trước thế thời của tác giả. Mảnh đất bao la của “quốc gia” mà lòng người thấy cô đơn lạc lõng biết bao, đứng trước cái mênh mông ấy nên bà chỉ cảm thấy “mảnh tình con con”. Bởi thế mà cụm từ đầy sáng tạo “ta với ta” thêm khắc sâu nỗi buồn man mác trĩu nặng lòng người hơn. Bài thơ Qua Đèo Ngang đã thành công khi chuyển tải được tâm sự u buồn của Bà Huyện Thanh Quan, đồng thời lồng ghép vào đó là cảnh tượng thiên nhiên rất thực, rất sinh động của một con đèo nổi tiếng trong thơ ca và trong lịch sử nước ta. Bài thơ không chỉ thành công về mặt ý nghĩa mà còn rất chỉnh chu trong việc dùng từ, tạo câu thật đặc sắc gây thích thú cho người đọc, người nghe. 3. Cảm nhận bài thơ Qua Đèo Ngang Trong nền văn học Trung đại Việt Nam có lẽ sẽ chẳng ai quên được hai nữ nhà thơ tài năng Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu ở bà chúa thơ Nôm ta thấy nét bứt phá, hơi nổi loạn thì ta lại tìm thấy những xúc cảm trầm buồn nhẹ nhàng ở Bà Huyện Thanh Quan, tiêu biểu đó là bài “Qua đèo ngang”. Sáng tác trong một lần tác giả đi vào Huế để nhậm chức. Trên đường có đi qua địa danh này, nỗi lòng yêu nước nhớ quê hương, xót nước lại trào dâng làm cảm hứng để tác giả ngẫu hứng bật ra những vần thơ. Mở đầu là hai câu đề khắc họa cảnh vật thiên nhiên nơi đèo Ngang Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa Chỉ bằng hai câu thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa một cách khái quát nhất về thời gian, không gian, cảnh vật nơi đèo Ngang. Cách mở đầu vô cùng tự nhiên “bước đến đèo Ngang” vào thời gian “bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. Lại đứng trước khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang rộng lớn mà hoang vu. “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Có thể thấy khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Giữa bối cảnh thiên nhiên bao la ấy, thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng của cảnh vật và con người ở đèo Ngang. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non khiến cho con người càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Chợ vốn là nơi biểu hiện đời sống của một cộng đồng làng xã nên thường tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Tâm sự của tác giả càng lúc càng rõ nét qua hai câu “luận” Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Bức tranh phong cảnh ở Đèo Ngang chẳng những có màu sắc của cảnh vật mà còn trở nên da diết với âm thanh của các loài chim như con chim quốc, con chim đa đa… Tiếng chim quốc như nhắc nhở mọi người về điển tích vua Thục Đế hóa thành con chim quốc để luôn nhớ đến nỗi đau mất nước của mình. Em thật khâm phục nghệ thuật đối ý, đối lời trong hai câu thơ này vì khi ghép lại với nhau, người đọc nhận ra ngay được tâm sự của nhà thơ “Nhớ thương nước nhà, quốc gia quốc gia”. Với kết cấu đầu cuối tương ứng, hai câu kết khép lại những tâm trạng của thi nhân Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta Cảnh vật khiến dừng bước chân trên con đường đến Phú Xuân. Cái bao la của đất trời, cái hùng vĩ của núi non, cái mênh mông của sông nước như níu bước chân nữ thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la của đèo Ngang, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần lấp đầy tâm hồn, bao trùm lên mọi cảnh vật “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn của người lữ khách càng vơi đầy. Một mảnh tình riêng, một tâm tư sâu kín, những tâm trong lòng mà chẳng tìm nổi một người để sẻ chia. Nỗi buồn cứ vậy lắng vào cảnh vật, tâm trạng kéo dài miên man. Chỉ có “ta” và “ta” giữa mênh mông trời đất. “Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.
phân tích bài qua đèo ngang lớp 7